Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành ngân hàng ghi nhận sự cải thiện ở nhiều chỉ tiêu, đặc biệt là tăng trưởng tín dụng. Tuy vậy, bức tranh chung vẫn xuất hiện những điểm cân nhắc khi huy động vốn chậm lại, mặt bằng lãi suất huy động đi lên và biên lãi thuần (NIM) thu hẹp. Các xu hướng này đã định hình hoạt động của hệ thống ngân hàng trong 9 tháng đầu năm và dự kiến tiếp tục kéo dài sang những tháng cuối năm.
Lợi nhuận toàn ngành tăng trưởng khả quan bất chấp áp lực NIM thu hẹp
Theo tổng hợp từ 27 ngân hàng trên sàn chứng khoán, tổng lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm đạt gần 260 nghìn tỷ đồng, tăng 19% và hoàn thành 74% kế hoạch năm.
Đà tăng được ghi nhận đồng đều ở các nhóm ngân hàng. Khối quốc doanh tăng bình quân 18% so với cùng kỳ; nhóm ngân hàng tư nhân quy mô lớn (MBB, VPB, TCB, ACB) tăng 14%; còn lại nhiều ngân hàng quy mô vừa và nhỏ tăng 24%.
Trong nhóm quốc doanh, Vietcombank tiếp tục duy trì vị trí quán quân với lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm đạt 33.133 tỷ đồng, tăng 5%; còn VietinBank tăng trưởng mạnh nhất (51%) vươn lên thứ hai toàn ngành với lợi nhuận ở mức 29.535 tỷ đồng.

Tại nhóm ngân hàng tư nhân lớn, Techcombank vẫn là ngân hàng lãi lớn nhất với lợi nhuận trước thuế đạt 23.385 tỷ đồng. Trong khi VPBank tăng tốc mạnh mẽ với khi báo lãi tăng 47% và lần đầu tiên vượt mốc 20.000 tỷ đồng.
Tính chung, có tổng cộng 25/27 ngân hàng báo cáo lợi nhuận tăng trưởng dương trong 9 tháng đầu năm với một số nhà băng báo lãi gấp nhiều lần cùng kỳ 2024 như ABBank, Kienlongbank, BVBank.
Tăng trưởng lợi nhuận đi cùng với sự cải thiện của tổng thu nhập hoạt động (tăng 12%), đạt hơn 528 nghìn tỷ đồng. Trong đó, thu nhập lãi thuần vẫn là nguồn thu chính của các ngân hàng với hơn 411 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 78% tổng thu nhập hoạt động và tăng 9% so với cùng kỳ 2024. Thu nhập ngoài lãi cũng duy trì nhịp tăng trưởng: thu dịch vụ tăng 6%, kinh doanh ngoại hối tăng 2%, lãi mua bán trái phiếu và thu nhập khác tăng mạnh (trên 60%).

Đến hết quý III, tín dụng của các ngân hàng trên sàn tăng 14,5% so với đầu năm, mức cao nhất trong 5 năm. Sự phân hóa tăng trưởng tín dụng giữa các ngân hàng thu hẹp so với nửa đầu năm, do nhiều tổ chức tín dụng đã dần tiến gần hạn mức được cấp. Trong đó, VPBank ghi nhận mức tăng trưởng tín dụng mạnh nhất thị trường, 29,1%, trong khi VietinBank dẫn đầu nhóm quốc doanh với 15,6%.
Một điểm đáng chú ý là tín dụng trung – dài hạn tăng nhanh hơn tín dụng ngắn hạn, cho thấy sự dịch chuyển về cấu trúc danh mục và phần nào phản ánh nhu cầu đầu tư sản xuất phục hồi.

Tuy nhiên, bối cảnh tín dụng tăng cao lại đặt áp lực lên huy động vốn. Tính đến quý III, huy động chỉ tăng 11,4%, thấp hơn đáng kể so với tín dụng. Khoảng cách giữa tăng trưởng huy động – tín dung âm trở lại ở mức 3,1 điểm %, tạo sức ép lên thanh khoản hệ thống. Bên cạnh đó, tỷ lệ CASA toàn ngành cũng giảm còn 21,9% do tác động tâm lý của hộ kinh doanh trước các quy định mới về hóa đơn điện tử và biến động dòng tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng khi giá vàng, USD và tài sản số tăng mạnh.

Để đảm bảo nguồn vốn, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động. Bình quân lãi suất tiền gửi tăng 0,15 điểm % trong quý III và tăng 0,4 điểm % từ đầu năm. Nhóm ngân hàng quốc doanh tăng nhẹ 0,05 điểm %; nhóm lớn và vừa tăng mạnh hơn, ở mức 0,20 – 0,25%. Bên cạnh đó, giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng mạnh, với quy mô hơn 480 nghìn tỷ đồng trong quý III, phản ánh nhu cầu bổ sung thanh khoản cục bộ trong hệ thống.
Diễn biến huy động chậm và chi phí vốn tăng đã tác động trực tiếp đến biên lãi thuần (NIM). Quý III, NIM toàn ngành giảm 0,1 điểm % xuống 3,0%, mức thấp nhất kể từ quý I/2025. Trong đó, lợi suất tài sản sinh lãi giảm 0,05 điểm % do nợ quá hạn hình thành ròng tăng, còn chi phí vốn tăng 0,05 điểm do mặt bằng lãi suất huy động nhích lên. Diễn biến trên kéo NIM bình quân 4 quý gần nhất giảm 0,35 điểm % xuống 3,15% - đây là mức thấp nhất kể từ 2018.

Tuy nhiên, nhiều ngân hàng tư nhân đang ghi nhận sự hồi phục NIM, nổi bật ở Sacombank, VPBank, OCB, MB, VIB nhờ duy trì tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay bán lẻ cao; riêng Sacombank được hỗ trợ thêm từ khoản thu nhập lãi ghi nhận lại từ các khoản tái cơ cấu liên quan đến Khu công nghiệp Phong Phú.
Ngược lại, nhóm ngân hàng nhà nước (Vietcombank, BIDV, VietinBank) vẫn neo NIM ở vùng đáy 2%– 2,6% do phải ưu tiên duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp dù chi phí huy động tăng nhanh.
Áp lực lên NIM được dự báo còn kéo dài trong quý cuối năm khi nhu cầu vốn tăng theo chu kỳ và lãi suất đầu vào chưa có nhiều dư địa giảm.
Chất lượng tài sản cải thiện nhẹ – Tỷ lệ nợ xấu giảm nhưng cần chú ý nợ nhóm 2
Trong khi hoạt động tín dụng và lợi nhuận có nhiều điểm sáng, chất lượng tài sản của hệ thống tiếp tục xuất hiện các tín hiệu đan xen. Tổng nợ xấu nội bảng trong 9 tháng đầu năm tăng thêm khoảng 44 nghìn tỷ đồng, lên 274 nghìn tỷ đồng. Do tốc độ mở rộng nhanh chóng của tín dụng, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống giảm xuống còn 2,01%.
Trong khi trích lập dự phòng chỉ tăng thêm hơn 23 nghìn tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm, kéo tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) giảm so với cuối năm 2024, xuống mức 84%. Dù vậy, tỷ lệ này đã hồi phục nhẹ từ mức đáy 79,8% ghi nhận trong quý II/2025.
Tại từng ngân hàng cụ thể, CTG, TCB, ACB và STB ghi nhận khả năng thu hồi nợ xấu tốt và tăng cường dự phòng, qua đó cải thiện chất lượng tài sản. Ở chiều ngược lại, một số ngân hàng như MBB, VPB hay SHB ghi nhận nợ xấu tăng, nhưng đa phần mang tính kỹ thuật hoặc liên quan đến đặc thù ngành nghề của khách hàng

Tuy vậy, một yếu tố cần theo dõi sát là nợ nhóm 2, vốn được xem là "vùng cảnh báo sớm" trước khi chuyển thành nợ xấu. Trong quý III, nợ nhóm 2 hình thành ròng tăng mạnh lên hơn 50 nghìn tỷ đồng, trái ngược với xu hướng giảm trong quý II. Nguyên nhân có thể đến từ áp lực trả nợ tăng khi lãi suất huy động đi lên, sự đáo hạn của các khoản tái cơ cấu hoặc rủi ro nội tại của một số lĩnh vực như bất động sản, thương mại và xây dựng.
Sự gia tăng nợ nhóm 2 cho thấy chất lượng tín dụng vẫn cần được giám sát chặt chẽ, đặc biệt trong bối cảnh mặt bằng lãi suất huy động chưa có dấu hiệu giảm và áp lực chi phí vốn có thể tiếp tục duy trì. Nếu không được xử lý kịp thời, một phần nợ nhóm 2 có thể chuyển thành nợ xấu trong quý IV hoặc đầu năm 2026, ảnh hưởng đến chi phí dự phòng và kết quả kinh doanh của các ngân hàng.
Nhìn tổng thể, 9 tháng đầu năm 2025 đánh dấu giai đoạn tăng tốc mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, với những tín hiệu tích cực như: tín dụng tăng nhanh, lợi nhuận cải thiện, nhiều ngân hàng trở lại đường đua tăng trưởng sau một năm 2024 thận trọng. Song phía sau những con số tích cực ấy là bài toán thanh khoản chưa thực sự bền vững, NIM thu hẹp và nợ nhóm 2 âm thầm tăng tốc – những yếu tố có thể quyết định triển vọng của từng nhà băng trong quý IV và năm tiếp theo.
Cuộc đua tăng trưởng vì thế không chỉ dừng lại ở quy mô tín dụng hay lợi nhuận, mà đang chuyển dần sang năng lực quản trị rủi ro, khả năng cân đối vốn và sức chống chịu với biến động vĩ mô. Các ngân hàng có nền tảng bán lẻ mạnh, nền tảng vốn tốt sẽ tiếp tục giữ ưu thế. Ngược lại, những tổ chức chịu áp lực tăng chi phí vốn hoặc có chất lượng tài sản kém ổn định sẽ đối mặt với nhiều áp lực trong thời gian tới.
