Theo quy định của Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự, sổ đỏ là tài sản pháp lý thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình hoặc tổ chức. Chỉ chính chủ hoặc người được ủy quyền hợp pháp mới có quyền dùng để thế chấp tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng.
Trường hợp tự ý lấy sổ đỏ của người khác mà không có sự đồng ý, đây có thể bị xem là hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản , thậm chí cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tùy theo mức độ. Hậu quả pháp lý không chỉ dừng ở việc hợp đồng thế chấp vô hiệu, mà người vi phạm còn phải đối mặt với trách nhiệm hình sự.
Lấy sổ đỏ của người khác đi thế chấp nếu không được "chính chủ" đồng ý có thể vi phạm pháp luật. (Ảnh minh họa)
Với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, hiện nay khâu thẩm định hồ sơ rất chặt chẽ và bắt buộc người đi thế chấp phải có tên trong sổ đỏ hoặc có giấy ủy quyền công chứng.
Luật sư khuyến cáo người dân cần tránh mọi hành vi sử dụng tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình để thế chấp. Nếu có nhu cầu vốn, hãy tìm đến các giải pháp an toàn hơn như vay tín chấp, hoặc thương lượng trực tiếp với chủ sở hữu để cùng đứng tên hợp đồng vay.
Việc lấy trộm sổ đỏ của người khác đi thế chấp thực chất vẫn là hành vi trộm cắp. Căn cứ khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, người trộm cắp tài sản của người khác có thể bị phạt tiền từ 2-3 triệu đồng với hành vi :
- Trộm cắp tài sản .
- Xâm nhập vào nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm của người khác để trộm cắp.
- Chiếm đoạt tài sản hoặc công nhiêm chiếm đoạt tài sản .
- Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác…
Đặc biệt, nếu sử dụng, thế chấp, cầm cố trái phép tài sản của người khác thì người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 3-5 triệu đồng theo điểm đ khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Do đó, nếu một người cố ý lấy sổ đỏ của người khác để cầm cố, thế chấp quyền sử dụng đất của người khác trái phép thì có thể bị phạt với mức tiền phạt tuỳ vào từng hành vi nêu trên.
Không chỉ bị xử phạt hành chính mà nghiêm trọng hơn, người vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản tại Điều 173 sửa đổi, bổ sung bởi khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự.