Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm. Ảnh: VGP/Minh Ngọc.
Thưa Thứ trưởng, Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị được xem là một bước ngoặt trong tư duy phát triển. Sau gần nửa năm triển khai, ông đánh giá thế nào về tác động của Nghị quyết số 68 đối với cộng đồng doanh nghiệp ?
Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm: Nghị quyết số 68 đặt ra mục tiêu rất lớn cho sự vươn lên mạnh mẽ của kinh tế tư nhân. Theo đó, phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10−12% mỗi năm; đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55−58%; giải quyết việc làm cho khoảng 84−85% tổng số lao động. Đến năm 2045, phấn đấu có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP. Kinh tế tư nhân có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.
Để đạt mục tiêu này, Nghị quyết tập trung vào việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm tối đa chi phí tuân thủ và tăng cường hỗ trợ để khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào GDP và nền kinh tế.
Có thể khẳng định, Nghị quyết số 68 ra đời tạo ra một luồng sinh khí mới, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp và củng cố niềm tin kinh doanh. Từ tháng 5/2025, khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68, bình quân mỗi tháng có hơn 18,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 43% so với bình quân 4 tháng đầu năm 2025.
Trong 10 tháng năm 2025, cả nước có 255,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2024, cao hơn 34% so với số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường; tổng vốn của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân bổ sung vào nền kinh tế ước đạt gần 5,2 triệu tỷ đồng, tăng 98,2% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế đến hết ngày 31/10/2025, cả nước đã có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp quay trở lại hoạt động kể từ tháng 5/2025 đến tháng tháng 9/2025 đạt trung bình hơn 12 nghìn doanh nghiệp/tháng, luỹ kế 10 tháng đầu năm 2025 có gần 93 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm 2024. Như vậy, bình quân số lượng doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng trưởng mạnh mẽ sau khi Nghị quyết số 68 được ban hành, đạt gần 32 nghìn doanh nghiệp/tháng, tăng hơn 28,4% so với bình quân 4 tháng đầu năm 2025 (24.900 doanh nghiệp/tháng).
Môi trường kinh doanh đã có những cải thiện đáng kể. Việc này thể hiện rõ qua đánh giá tích cực của cộng đồng doanh nghiệp. Khảo sát của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho thấy hơn 46% doanh nghiệp "kỳ vọng/rất kỳ vọng" vào hiệu quả của Nghị quyết số 68, đạt điểm trung bình cao nhất trong các chỉ báo niềm tin kinh doanh.
Đặc biệt, để đạt được mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030, Bộ Tài chính đang tiếp tục chủ động phối hợp với các cơ quan để hoàn thiện thể chế, kiến tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch và bình đẳng.
Các rào cản gia nhập thị trường và chi phí tuân thủ sẽ được tháo gỡ thông qua việc cắt giảm thực chất các thủ tục hành chính (TTHC) và cải cách điều kiện kinh doanh (ĐKKD). Tính đến hết tháng 10/2025, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án cắt giảm 348 TTHC, đơn giản hóa 1.703 TTHC, cắt giảm 2.041 ĐKKD thuộc phạm vi quản lý của 14/14 bộ, cơ quan; đồng thời, các bộ, cơ quan đã chủ động sửa đổi theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) để thực thi cắt giảm 172 TTHC, đơn giản hóa 718 TTHC, cắt giảm 222 ĐKKD.
Như vậy, theo phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, dự kiến tổng số TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa là 2.941 TTHC, chiếm 60,2% và cắt giảm 2.263 ĐKKD thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, chiếm 31%; đồng thời, dự kiến tổng thời gian cắt giảm giải quyết TTHC là 13.182 ngày và chi phí cắt giảm tuân thủ TTHC đạt hơn 34,2 nghìn tỷ đồng/năm (đạt gần 29%).
Để đạt được mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030, khu vực hộ kinh doanh được xem là tiềm năng quan trọng. Theo ông, đâu là yếu tố then chốt để khuyến khích họ chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp?
Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm: Hiện nay, cả nước có khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh, đây chính là khu vực tiềm năng to lớn để đạt mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Nếu chỉ cần một phần nhỏ trong số này mạnh dạn chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp, mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp hoàn toàn khả thi.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều hộ kinh doanh vẫn còn tâm lý e ngại khi chuyển đổi, theo tôi có 3 nguyên nhân chính. Thứ nhất, chi phí tuân thủ pháp luật giữa hộ kinh doanh (HKD) và doanh nghiệp (DN) vẫn còn khoảng cách khá lớn. Thứ hai, HKD chưa nắm rõ các quy định pháp luật về DN, chưa quen với việc quản lý sổ sách kế toán do đó có tâm lý e ngại chuyển đổi. Thứ ba, HKD trước đây được áp dụng thuế khoán, chế độ sổ sách, hóa đơn, chứng từ kế toán đơn giản hơn nhiều so với DN.
Để tháo gỡ những rào cản đó, Nghị quyết số 68 đã đưa ra chủ trương quan trọng là từ năm 2026 sẽ bỏ hình thức thuế khoán, tiến tới minh bạch hóa hoạt động hộ kinh doanh, đồng thời tạo động lực khuyến khích họ chuyển đổi. Khi trở thành doanh nghiệp, họ sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ như ưu đãi tiếp cận tín dụng, đất đai, đào tạo, công nghệ và các ưu đãi thuế theo tinh thần của Nghị quyết số 198.
Bộ Tài chính đã hoàn thành dự thảo Nghị định hướng dẫn Nghị quyết số 198, trình Chính phủ xem xét, thông qua và kỳ vọng sau khi Nghị định này được ban hành, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thành lập mới và hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi lên doanh nghiệp sẽ tác động tích cực tới quá trình chuyển đổi của hộ kinh doanh.
Bộ Tài chính đang tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong các lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc, tiến tới 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.
Thưa Thứ trưởng, Bộ Tài chính đã có những bước đi cụ thể nào để hỗ trợ các hộ kinh doanh tự tin chuyển đổi sang doanh nghiệp?
Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm: Để hỗ trợ HKD chuyển đổi sang DN, Bộ Tài chính tập trung vào hai nhóm giải pháp chính là hoàn thiện khung pháp lý, chính sách và triển khai các biện pháp hỗ trợ thực tiễn.
Bộ Tài chính đang khẩn trương nghiên cứu sửa đổi Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, hướng đến mô hình quản lý mới - kê khai đơn giản, minh bạch, dễ thực hiện; đơn giản hoá sổ sách, hoá đơn, chứng từ, bảo đảm HKD không bị áp lực quá lớn khi chuyển đổi, nghiên cứu xây dựng Luật kinh doanh cá thể để thu hẹp tối đa khoảng cách về tổ chức quản trị và chế độ tài chính kế toán giữa HKD và DN.
Bên cạnh đó, Bộ cũng đang trình Chính phủ Nghị định hướng dẫn Nghị quyết số 198, với các hỗ trợ thiết thực: cung cấp phần mềm kế toán miễn phí, khóa đào tạo ngắn hạn, hỗ trợ đăng ký kinh doanh trực tuyến, rút ngắn thời gian chuyển đổi.
Để triển khai đồng bộ, Bộ Tài chính tích cực nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để triển khai thực hiện chính sách bãi bỏ thuế khoán đối với HKD từ ngày 01/01/2026. Đồng thời, tăng cường chuyển đổi số trong quản lý thuế, như: Áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền giúp thu đúng, thu đủ, đồng thời giảm thời gian, chi phí cho HKD; Cung cấp miễn phí hệ thống khai - nộp thuế điện tử, phần mềm hoá đơn điện tử, phần mềm kế toán, đặc biệt ưu tiên hỗ trợ cho các HKD còn khó khăn trong giai đoạn đầu; Đẩy mạnh chuyển đổi số nội bộ, nâng cao chất lượng dịch vụ công & năng lực quản lý thuế, tăng cường kết nối dữ liệu.
Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và năng lực quản trị cho HKD cũng được Bộ Tài chính nói chung và ngành thuế nói riêng tập trung đẩy mạnh trong thời gian vừa qua. Ngành thuế đã "cầm tay chỉ việc" cho hộ kinh doanh trong việc lập hóa đơn điện tử, kê khai thuế, sử dụng phần mềm kế toán.
Ngoài ra, Bộ đang đổi mới công tác kiểm tra, giám sát theo hướng trực tuyến, dựa trên phân loại rủi ro, giảm áp lực, tăng minh bạch và tạo môi trường thân thiện hơn cho doanh nghiệp.
Từ tháng 5/2025, khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68, bình quân mỗi tháng có hơn 18,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 43% so với bình quân 4 tháng đầu năm 2025.
Tiếp cận nguồn lực luôn là thách thức lớn với khu vực tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Bộ Tài chính có những giải pháp nào cho vấn đề này?
Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm: Trở ngại lớn nhất đối với kinh tế tư nhân hiện nay là tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt vốn, đất đai, công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Với vai trò là cơ quan tham mưu cho Chính phủ về tài chính, ngân sách; hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh, Bộ Tài chính dự kiến tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau đây để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn lực, cụ thể.
Một là, tập trung cải cách chính sách thuế – tài khóa để tạo động lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; đề xuất các cơ chế ưu đãi phù hợp về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập đầu tư vào hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo; miễn, giảm một số loại phí, lệ phí trong giai đoạn đầu cho các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ; áp dụng cơ chế khấu trừ, hoàn thuế nhanh cho doanh nghiệp có dự án đầu tư đổi mới sáng tạo.
Hai là, vận hành hiệu quả Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua nghiên cứu hoàn thiện mô hình các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách (quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ đầu tư phát triển địa phương, …) để xây dựng mô hình hoạt động phù hợp nhất với yêu cầu quản lý nhà nước, nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo;
Ba là, tăng khả năng tiếp cận đất đai, Bộ Tài chính sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương rà soát, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được thuê lại đất đai, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng là tài sản công dôi dư theo nguyên tắc công khai, minh bạch; đẩy nhanh triển khai Nghị quyết số 198 để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tiếp cận quỹ đất trong khu, cụm công nghiệp.
Đồng thời, Bộ chủ động đẩy mạnh hỗ trợ chuyển đổi số, đào tạo quản trị, tài chính – thuế; tăng cường phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp để doanh nghiệp hiểu và tận dụng kịp thời các chính sách hỗ trợ.
Theo Thứ trưởng, đâu là những ưu tiên trọng tâm trong giai đoạn tới để đạt mục tiêu phát triển doanh nghiệp theo Nghị quyết số 68?
Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm: Tôi cho rằng có ba nhóm nhiệm vụ cần được tập trung trong thời gian tới.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo các định hướng của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 68 và của Quốc hội tại Nghị quyết số 198 để khẩn trương đưa các chính sách vào cuộc sống nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tài chính, tín dụng và mua sắm công; hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực, hỗ trợ hình thành doanh nghiệp vừa và lớn, doanh nghiệp tiên phong nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN.
Thứ hai, tiếp tục cắt giảm chi phí và đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm kiến tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, hiệu quả. Bộ Tài chính đang tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong các lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc, tiến tới 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Điều này giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời nâng cao tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, tập trung tháo gỡ rào cản gia nhập và hoạt động trên thị trường, cắt giảm thực chất thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, cải cách điều kiện kinh doanh. Rà soát, tháo gỡ vướng mắc trong đầu tư, đất đai, xây dựng, quy hoạch… tạo hành lang pháp lý thông thoáng, ổn định, dễ dự đoán cho doanh nghiệp.
Thứ ba, tạo dựng và lan tỏa niềm tin, tinh thần khởi nghiệp trong xã hội. Bộ Tài chính luôn xác định việc hỗ trợ doanh nghiệp không chỉ là ban hành chính sách, mà còn là quá trình đồng hành, lắng nghe, chia sẻ và tháo gỡ vướng mắc kịp thời, xây dựng chính sách theo hướng kiến tạo cho sự phát triển
Với hàng loạt giải pháp đồng bộ, từ thể chế, chính sách đến triển khai thực tiễn, Bộ Tài chính đang từng bước tháo gỡ điểm nghẽn, tạo động lực mới cho doanh nghiệp, góp phần đưa khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, giàu mạnh, phồn minh, văn minh, hạnh phúc của dân tộc.
Xin cảm ơn Thứ trưởng về những chia sẻ rất cụ thể và thực tế. Hy vọng rằng, với sự vào cuộc quyết liệt của Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ thật sự bứt phá, trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước./.