Theo tờ trình, hiện nay, ACV là chủ đầu tư dự án thành phần 3 "Các công trình thiết yếu trong cảng hàng không do nhà đầu tư khai thác cảng thực hiện". Đơn vị này đã và đang đầu tư xây dựng toàn bộ hạ tầng khu bay, hạ tầng chung của Cảng HKQT Long Thành và là người khai thác Cảng HKQT Long Thành theo quy định.

Sân bay Long Thành đang chạy nước rút hoàn thành giai đoạn 1
ẢNH: ACV
Do đó, việc ACV tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 của dự án nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong đầu tư phát triển, khai thác, vận hành sân bay lớn nhất nước.
Việc này cũng nhằm đảm bảo nguyên tắc một cảng hàng không - một người khai thác, tính liên tục trong việc hiện thực hóa tầm nhìn phát triển Cảng HKQT Long Thành theo mô hình sân bay xanh - thông minh - tiêu chuẩn quốc tế 5 sao. Đồng thời, nâng cao tính tự chủ và sự đồng bộ tuyệt đối về nền tảng công nghệ ICT giữa 2 giai đoạn.
Để chuẩn bị cho công tác đầu tư giai đoạn 2 Cảng Long Thành, ACV cho biết đã chủ động chuẩn bị phương án cân đối vốn khả thi, hiệu quả.
Cụ thể, đơn vị này cơ bản đáp ứng đủ nguồn vốn để đầu tư ngay đường cất hạ cánh thứ 3 Cảng Long Thành từ nguồn lợi nhuận sau thuế năm 2024 và năm 2025 dự kiến chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Đối với các hạng mục còn lại của giai đoạn 2, ACV dự kiến cân đối bằng nguồn vốn tự có và vốn vay.
Theo ACV , dự án xây dựng đường cất hạ cánh thứ 3 và các công trình phụ trợ có quy mô bao gồm các hạng mục chính như: Đường cất hạ cánh thứ 3; hệ thống đường lăn (bao gồm hệ thống đường lăn song song, đường lăn thoát nhanh và đường lăn kết nối với các hạng mục công trình thuộc giai đoạn 1); hệ thống thiết bị khu bay; hệ thống biển báo, sơn kẻ và các hạ tầng phụ trợ đồng bộ khác...
ACV đánh giá nhà thầu trong nước có năng lực thực hiện toàn bộ các khâu từ thiết kế, thẩm tra, cho tới thi công, giám sát thi công. Tổng mức đầu tư khoảng 13.000 tỉ đồng, đầu tư bằng nguồn vốn hợp pháp của ACV , không sử dụng bảo lãnh Chính phủ.
Trong khi đó, dự án đầu tư xây dựng Cảng HKQT Long Thành giai đoạn 2 có quy mô bao gồm 1 nhà ga hành khách và các hạng mục công trình đồng bộ khác để đạt công suất 50 triệu hành khách/năm, 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm. Với quy mô này, cần thiết có sự tham gia của nhà thầu quốc tế trong một số khâu từ thiết kế tới thi công. Tổng mức đầu tư khoảng 80.000 tỉ đồng, đầu tư bằng nguồn vốn hợp pháp của ACV .
Trên cơ sở báo cáo, ACV kiến nghị Bộ Xây dựng quyết định chủ trương giao ACV làm chủ đầu tư giai đoạn 2 Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành với quy mô bao gồm 1 đường cất hạ cánh cấu hình mở, 1 nhà ga hành khách và các hạng mục công trình đồng bộ khác để đạt công suất 50 triệu hành khách/năm, 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm trước khi quyết định phê duyệt dự án.
Bên cạnh đó, chấp thuận cho phép ACV triển khai giai đoạn 2 theo phương án tổ chức phê duyệt dự án đầu tư xây dựng đường cất hạ cánh thứ 3 và các công trình phụ trợ trước; sau đó rà soát, tổng hợp kết quả đã phê duyệt vào Báo cáo nghiên cứu khả thi trình Bộ trưởng Bộ Xây dựng quyết định đầu tư.
Trước đó, Bộ Xây dựng đã có tờ trình gửi Chính phủ xem xét, trình Quốc hội chấp thuận điều chỉnh nội dung khoản 6 điều 2 Nghị quyết số 94/2015/QH13 thành "Cho phép Chính phủ tổ chức phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2 của dự án theo thẩm quyền mà không phải báo cáo Quốc hội thông qua".
Theo Bộ Xây dựng, trên cơ sở dự báo nhu cầu vận tải, Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 1 của dự án đã dự kiến thời điểm nghiên cứu, đầu tư giai đoạn 2 (gồm đường cất hạ cánh thứ 3 và nhà ga hành khách thứ 2) là từ năm 2028 - 2032.
Tuy nhiên, với kịch bản tăng trưởng GDP được đề ra từ năm 2026 đạt hai con số, sản lượng hành khách qua các cảng hàng không nói chung, đặc biệt là Cảng HKQT Long Thành nói riêng sẽ tăng nhanh hơn dự báo trước đây. Do đó, Bộ Xây dựng cho rằng cần tổ chức nghiên cứu đầu tư giai đoạn 2 sớm hơn so với dự kiến.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đầu tư ngay đường cất hạ cánh thứ 3 thuộc giai đoạn 2 sẽ tận dụng được nhân công, máy móc thiết bị sẵn có của các nhà thầu đang thi công, qua đó tiết kiệm thời gian, chi phí, rút ngắn tiến độ và nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng; góp phần giảm thiểu tác động tới hoạt động khai thác cảng như bụi, tiếng ồn do hoạt động thi công giai đoạn 2.