Đã 45 năm kể từ ngày chính thức được cấp giấy phép kinh doanh với tên gọi Tổ sản xuất Vĩnh Tiến với ngành nghề hoạt động là giấy, ông Lâm An Dậu, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Vĩnh Tiến , bồi hồi nhớ lại: lúc đó, cơ sở giấy tư nhân chỉ được làm gia công cho các đơn vị bách hóa của nhà nước, không được tự sản xuất và bán sản phẩm ra thị trường; không được mua giấy báo phế liệu từ tư nhân… Sau năm 1986, Việt Nam cho phép kinh tế tư nhân hoạt động, cơ sở Vĩnh Tiến đăng ký lên thành doanh nghiệp (DN), bắt đầu được sản xuất trực tiếp, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Thế nhưng bất kể làm gì cũng phải xin phép hàng chục cơ quan, từ tổ dân phố đến phường, quận, thuế, điện, nước…
Sản xuất sắt thép Hòa Phát
Ảnh: Đào Ngọc Thạch
"Ví dụ như cấp nước cho sản xuất, nếu muốn lắp đặt vòi to hơn để nước ra mạnh hơn cũng phải chạy đi xin phép. Cái gì làm khác đi là sẽ bị nhắc nhở và yêu cầu gỡ bỏ. Nên khi đó, tôi đã đưa ra tôn chỉ: không được làm sai, không được làm hàng gian hàng giả, không được trốn thuế… Điều đó giúp mình đảm bảo hoạt động sản xuất an toàn, ổn định. Nhưng các rào cản hành chính khiến sản xuất không thể mở rộng", ông Lâm An Dậu kể lại. Ngay cả giai đoạn khi luật DN tư nhân 1990 ra đời, các DN vẫn chưa thể chủ động hoàn toàn. Chẳng hạn, giấy Vĩnh Tiến muốn mua máy móc hay mua giấy từ nước ngoài đều phải qua ủy thác cho một DN nhà nước. "Sau khi đã có khung pháp lý thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, có DN tư nhân nhưng không phải đơn giản. Lĩnh vực in ấn vẫn có nhiều điều kiện bắt buộc mà chúng tôi phải tuân thủ. Chỉ từ sau những năm 2000 trở đi thì mọi khó khăn được tháo gỡ nhiều, DN tư nhân như chúng tôi bắt đầu mở rộng kinh doanh, tăng trưởng mạnh", ông Lâm An Dậu nhớ lại.
Cũng xuất phát từ cơ sở hộ gia đình và đến khi luật cho phép kinh tế tư nhân hoạt động, năm 1993 Công ty TNHH xây dựng và chế biến thực phẩm Kinh Đô (tiền thân của Công ty cổ phần Tập đoàn KIDO ngày nay) ra đời. Nhớ lại những năm tháng sau khi chuyển thành DN, ông Trần Lệ Nguyên, Phó chủ tịch HĐQT - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn KIDO, cho rằng DN nào khởi nghiệp cũng đầy rẫy khó khăn, đặc biệt là những năm đầu khi công ty ra đời trong bối cảnh Việt Nam chưa thật sự mở cửa như hiện nay. Khi đó, muốn xây dựng DN phải xin phép rất nhiều sở ngành, rất vất vả. "Tóm lại, ở mỗi khâu, hoạt động đều phải xin phép và trải qua rất nhiều bước. Nhanh nhất thì cũng cả tháng mới có giấy phép. Một ví dụ là ngày trước dầu ăn thuộc mặt hàng thiết yếu chỉ có DN nhà nước được sản xuất, kinh doanh. Sau này thật sự thay đổi thì các DN tư nhân mới được tham gia nhiều lĩnh vực, trong đó có cả dầu ăn. Cũng nhờ thế, KIDO đã mua lại nhiều thương hiệu, trở thành một trong những DN lớn nhất ngành dầu ăn VN", ông Trần Lệ Nguyên chia sẻ.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư, vẫn nhớ những câu chuyện "gian nan" để một DN ra đời. Ông kể sau năm 1986, Chính phủ đã chủ trương tự do hóa thương mại và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đặc biệt đến năm 1990, luật Công ty và luật DN tư nhân được ra đời. Đây là những văn bản pháp lý đầu tiên quy định về việc thành lập và hoạt động của các chủ thể kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Thế nhưng, hộ kinh doanh, cơ sở muốn đăng ký lập DN vẫn cực kỳ vất vả. Trong bối cảnh vẫn còn tâm lý e dè, nghi kỵ với kinh tế tư nhân, chủ tịch UBND tỉnh khi ký giấy phép thành lập DN tư nhân sẽ yêu cầu tổ trưởng tổ dân phố, đại diện khu dân cư, chủ tịch xã hoặc phường và hàng loạt sở, ngành cùng ký vào đơn xin thành lập DN.
Sản xuất tại Công ty Thọ Phát thuộc Tập đoàn KIDO
Ảnh: CTV
"Muốn lập DN thì phải có chủ tịch tỉnh cho phép. Ước tính khi đó lập DN là phải có 35 chữ ký và 32 con dấu - đó là do tổ dân phố, khu phố không có con dấu chứ không còn nhiều hơn. Tất nhiên, nhiều khâu, nhiều cửa thì chi phí thời gian và tiền bạc của người dân cũng đáng kể. Theo điều tra của chúng tôi, xin thành lập DN tư nhân phải tốn chi phí khoảng 2.000 USD và mất 6 tháng hay 1 năm mới được. Tôi còn nhớ lãnh đạo Hà Nội cứ cuối tuần mới tập trung những người có liên quan để cùng ký và ban hành 2 giấy phép thành lập DN. Vì thế, một năm số lượng DN ra đời vẫn chỉ là con số rất nhỏ", TS Lê Đăng Doanh kể.
Thậm chí đến khi luật DN 1999 ra đời nêu rõ mọi tổ chức và công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, nhà nước tổ chức quản lý, giám sát theo nguyên tắc công khai, minh bạch, việc thực hiện vẫn khá dè dặt. Theo TS Lê Đăng Doanh, sau khi tìm hiểu điều tra thì hầu như mọi hoạt động của DN vẫn phải xin phép. Ban tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải thời đó đã báo cáo trình lên một danh sách giấy phép con. "Giấy phép bán báo cứ 3 tháng phải xin một lần; Giấy phép thu nhặt thủy tinh vỡ, sắt vụn cứ 3 tháng xin một lần… Chúng tôi đã làm ra một danh sách báo cáo với Thủ tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng đã ban hành quyết định bãi bỏ 256 giấy phép con, mở cửa cho các DN hoạt động dễ dàng hơn", ông Lê Đăng Doanh kể. Từ đó mới là giai đoạn phát triển mạnh của kinh tế tư nhân.
Chuyên gia kinh tế, PGS-TS Võ Đại Lược, cũng là người từng tham gia các tổ tư vấn của nhiều thời kỳ lãnh đạo Chính phủ, thừa nhận năm 1986 gọi là "đổi mới" nhưng cũng mới chỉ ở tư duy lãnh đạo. Sau năm 1990 trở đi, với những khung pháp lý đầu tiên về công ty, DN tư nhân, Việt Nam mới thật sự chuyển sang kinh tế thị trường. Thế nhưng, dù cho phép kinh tế tư nhân hoạt động nhưng DN nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn là chủ đạo. Ông chia sẻ: "Tôi nhớ mãi đến năm 1998 khi làm dự án đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ (Hà Nội), được xem là "đường cao tốc đầu tiên của Việt Nam" mới có DN tư nhân tham gia dưới hình thức liên danh với DN nhà nước để thực hiện một phần dự án. Những dự án lớn về hạ tầng, giao thông hay trong nhiều lĩnh vực đều hiếm có sự tham gia của DN tư nhân. Điều này cho thấy kinh tế tư nhân vẫn khá chật vật dù Đảng và Chính phủ đã có nhiều quyết sách thay đổi, thúc đẩy lĩnh vực này phát triển".
Thật sự khi triển khai đúng tinh thần của Nghị quyết 68 thì tôi cho rằng Việt Nam sẽ có từ 2 - 2,5 triệu DN trong thời gian tới. Đây là lực lượng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân, đóng góp lớn để Việt Nam tăng trưởng GDP đến 2 con số trong giai đoạn tới.
Không còn hoạt động trong sự mò mẫm, trầy trật làm ăn trong sự thận trọng của nhà nước và sự kỳ thị của xã hội, khối kinh tế tư nhân hiện đã có vị trí nhất định trong nền kinh tế. PGS-TS Võ Đại Lược nhấn mạnh: Giai đoạn sau Đại hội VII (1991) đến những năm 2000, Việt Nam bước vào thời kỳ thay đổi lớn nhất về thể chế khi hàng trăm luật, nghị định được sửa đổi, ban hành mới để phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, mở cửa thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ đó, hàng loạt DN tư nhân ra đời, tạo nền móng cho những tập đoàn lớn hiện nay.
Ví dụ, Tập đoàn FPT được thành lập từ năm 1988, nhanh chóng chuyển sang lĩnh vực công nghệ và ngày nay đã vươn xa, mở công ty ở nhiều quốc gia và bắt tay hợp tác với những tập đoàn công nghệ dẫn đầu trên thế giới. Tập đoàn Hòa Phát cũng thuộc nhóm công ty tư nhân thành lập ngay sau khi luật Công ty Việt Nam ra đời và đến nay nằm trong top 10 DN tư nhân lớn nhất nước, trở thành nhà sản xuất thép lớn nhất nước và cả khu vực Đông Nam Á. Hay như Tập đoàn Vingroup cũng ra đời ngay từ đầu thập niên 1990 và ngày nay trở thành một thương hiệu lớn không chỉ trong khu vực mà cả tầm thế giới; là đơn vị duy nhất sản xuất ô tô của Việt Nam và đang tham gia làm chủ những công nghệ mới nhất như robot…
Công ty VinMotion trình diễn robot hình người Make in Vietnam
Ảnh: CTV
PGS-TS Võ Đại Lược nhấn mạnh: Việt Nam hiện nay không chỉ được biết đến là địa chỉ hấp dẫn hàng đầu với các nguồn FDI mà còn bắt đầu được biết đến với các thương hiệu lớn. Thậm chí, các dự án đầu tư ra nước ngoài của các DN tư nhân Việt Nam thông qua các thương vụ mua lại các DN nước ngoài, dự án tại nước ngoài. Các DN tư nhân đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao vị thế, "quyền lực mềm" của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới từ góc độ này. "Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế là hoàn toàn đúng. Quan trọng là chúng ta phải cụ thể hóa nghị quyết bằng các quy định để thực hiện nhanh, thúc đẩy DN tư nhân phát triển. Đặc biệt số lượng DN "có máu mặt" hiện chỉ đếm trên đầu ngón tay và cần hỗ trợ cho DN nhỏ và vừa để lớn mạnh hơn nữa. Từ đó phát huy tiềm năng của kinh tế tư nhân để có nhiều đóng góp vào kinh tế cả nước", PGS-TS Võ Đại Lược nhấn mạnh.
Đồng tình, TS Lê Đăng Doanh cho rằng DN tư nhân đã trải qua rất nhiều thay đổi, vươn lên để có những thương hiệu lớn mạnh cũng như có các tỉ phú USD đứng trong bảng xếp hạng toàn cầu. Tuy nhiên, với hơn 100 triệu dân mà Việt Nam chưa đạt được 1 triệu DN thì tỷ lệ này còn quá thấp. Theo ông, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị rất hay và rất đúng nhưng cần phải được thực hiện nhanh với sự giám sát chặt chẽ. Hiện nay với sự phát triển của kinh tế số, công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn… thì quá trình giám sát của các bộ, ngành và địa phương thực sự dễ dàng hơn trước đây nên cần phải xem xét, bãi bỏ nhiều quy định. Từ đó mới tạo ra động lực mạnh mẽ thật sự cho DN tư nhân phát triển. "Ngoài việc hỗ trợ DN nhỏ và vừa, cần khuyến khích phát triển hơn 5,2 triệu hộ kinh doanh chuyển lên DN. Bởi Việt Nam đã mở rộng cửa nền kinh tế, ký gần 20 hiệp định thương mại tự do nhưng hộ kinh tế gia đình không có tư cách pháp nhân nên không thể đón nhận cơ hội mở rộng kinh doanh từ việc giao thương với thế giới. Thật sự khi triển khai đúng tinh thần của Nghị quyết 68 thì tôi cho rằng Việt Nam sẽ có từ 2 - 2,5 triệu DN trong thời gian tới. Đây là lực lượng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân, đóng góp lớn để Việt Nam tăng trưởng GDP đến 2 con số trong giai đoạn tới", TS Lê Đăng Doanh đề xuất.
Ảnh: Ngọc Anh
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế sẽ mở ra thêm điều kiện để hỗ trợ, thúc đẩy các DN, hộ gia đình phát triển mạnh hơn. Ví dụ, xu hướng thương mại điện tử ở Trung Quốc đã có từ 6-7 năm trước, còn Việt Nam chỉ mới nổi trội trong khoảng 2-3 năm trở lại đây, bị chậm chân và đi sau nhiều nước. Hiện nay, chuyển đổi số, công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo chỉ vừa phát triển và chúng ta có cơ hội lớn để vươn lên song hành với nhiều quốc gia mà không bị tụt hậu phía sau. Việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ DN nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực như đất đai, nguồn vốn cũng như các công nghệ mới để đẩy mạnh kênh tiêu thụ, tiếp cận nhanh hơn với người tiêu dùng … sẽ tạo ra nền kinh tế tự lực tự cường. Đây chính là nền tảng để Việt Nam hướng đến kỷ nguyên mới.
Ông Trần Lệ Nguyên, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn KIDO
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đặt ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.