Cuộc chiến thuế quan thường được biện minh như công cụ bảo vệ việc làm hoặc đưa hoạt động sản xuất trở lại để cải thiện an ninh quốc gia. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới cho thấy thương chiến giữa Mỹ và Trung Quốc kéo theo hệ lụy ít được chú ý, đó là ô nhiễm môi trường .
Khi thuế quan buộc chuỗi cung ứng toàn cầu phải thay đổi lộ trình, chuyển sang những phương án vận chuyển và sản xuất kém hiệu quả hơn, lượng phát thải khí carbon dioxide (CO₂) theo đó cũng tăng lên. Phân tích tác động môi trường của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung cho thấy, biện pháp thuế quan không chỉ làm xáo trộn thương mại quốc tế mà còn trực tiếp góp phần đẩy tổng lượng phát thải CO₂ trên toàn cầu lên cao hơn.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung mang nguy cơ tiềm ẩn về ô nhiễm môi trường .
Gia tăng khí thải trên toàn cầu
Vận tải biển là một phần quan trọng của nền kinh tế thế giới, chiếm hơn 80% thương mại quốc tế. Trong 20 năm qua, cùng với sự mở rộng hội nhập kinh tế thế giới, thương mại quốc tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, điều này cũng tạo ra những cơ hội phát triển quan trọng cho ngành vận tải biển.
Theo số liệu thống kê từ cơ sở dữ liệu phân tích thương mại của Liên hợp quốc, thương mại quốc tế tăng từ 6,22 nghìn tỷ USD năm 2001 lên 15,35 nghìn tỷ USD năm 2019, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 5%.
Sự phát triển này nhanh chóng thúc đẩy giao lưu kinh tế và thương mại giữa các khu vực khác nhau và tất yếu kéo theo một loạt vấn đề môi trường . Ví dụ, sự gia tăng lượng khí thải carbon do nhu cầu vận tải biển ngày càng tăng trở thành một trong những mối quan ngại quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính toàn cầu.
Là hai quốc gia có giá trị thương mại lớn nhất thế giới, xung đột thuế quan giữa Trung Quốc và Mỹ không chỉ làm giảm đáng kể giao lưu thương mại giữa hai nước, dẫn đến hiện tượng chuyển hướng thương mại phức tạp, mà còn ảnh hưởng đến mô hình vận tải biển toàn cầu. Từ đó tác động phức tạp và sâu sắc đến lượng khí thải carbon từ vận tải biển.
Trong góc nhìn khác, nếu cả Trung Quốc và Mỹ cùng áp thuế 60% đối với hàng nhập khẩu - mức thuế tương đương với những leo thang căng thẳng gần đây sẽ dẫn đến sự gia tăng đột biến lượng khí thải toàn cầu lên gần 410 triệu tấn, xấp xỉ lượng khí thải của 165 triệu ô tô chạy bằng xăng (động cơ 1,6 lít) mỗi chiếc di chuyển 10.000 km.
Trung Quốc đang gánh chịu một phần không nhỏ trong sản lượng phát thải cao của thế giới. Theo cơ sở dữ liệu Chuỗi giá trị toàn cầu UNCTAD-EORA, năm 2017 (trước khi cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc bắt đầu), 33,9% lượng carbon trong hàng nhập khẩu của Mỹ có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Khí thải từ hoạt động sản xuất. (Ảnh: New Atlas)
Lượng khí thải này không biến mất khi thuế quan làm gián đoạn thương mại song phương, chúng được Mỹ tái nhập khẩu thông qua sản xuất trong nước với chi phí cao hơn hoặc được chuyển hướng sang các nước thứ ba.
"Các yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung , mang lại những tác động tiêu cực và làm gia tăng sự bất ổn cho nền kinh tế toàn cầu, điều này cũng khiến Trung Quốc gặp khó khăn hơn trong việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu", tờ Reuters dẫn lời quan chức Trung Quốc đưa tin.
Tác động đến nước thứ ba
Trường hợp căng thẳng thương mại định hình lại cấu trúc công nghiệp ở Trung Quốc và Mỹ, việc chuyển dịch sản xuất sang hoạt động tiêu thụ nhiều năng lượng hơn sẽ làm tăng cường độ phát thải carbon bình quân của cả hai nền kinh tế, ngay cả khi cường độ phát thải cụ thể của từng ngành không thay đổi. Nghiên cứu của CNA cho thấy sự gia tăng phát thải do những thay đổi cấu trúc gây ra vượt xa sự giảm phát thải liên quan đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Nhưng tác động này còn rõ rệt hơn ở những nước đang phát triển. Thâm hụt thương mại hàng hóa của Mỹ duy trì ở mức trên 4% GDP trong thập kỷ qua, cho thấy cuộc chiến thương mại của nước này với Trung Quốc dẫn đến việc chuyển sản xuất sang nước láng giềng và nước có quan hệ thân thiện, thay vì đưa sản xuất trở lại trong nước.
Mỗi phần trăm trong thuế quan song phương giữa Mỹ và Trung Quốc gây ra sự gia tăng từ 0,1% đến 0,34% lượng khí thải carbon phát sinh trong thương mại giữa các nước thứ ba. Kết quả mô phỏng xác nhận rằng việc giảm nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc phần lớn được bù đắp bằng nhập khẩu từ nền kinh tế Đông Nam Á hoặc Mỹ Latinh, nơi nhiều ngành công nghiệp có cường độ phát thải carbon cao hơn so với Trung Quốc. Về cơ bản, Mỹ chỉ thay thế nhà cung cấp bằng nhà cung cấp khác, từ đó làm tăng tổng lượng khí thải CO₂ toàn cầu.
Trong điều kiện kinh tế bình thường, cường độ phát thải carbon của một quốc gia thường vận động theo quy luật của đường cong Kuznets môi trường : phát thải gia tăng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, trước khi chững lại và giảm dần khi nền kinh tế bước sang giai đoạn cao hơn.
Nếu không tồn tại cuộc chiến thương mại , các quốc gia sẽ dịch chuyển theo quy luật này theo thời gian. Khi các nền kinh tế đang phát triển phát thải nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa , mức tăng đó có xu hướng được bù đắp bởi sự sụt giảm phát thải ở các nền kinh tế phát triển.
Nhưng xung đột thương mại đã phá vỡ sự cân bằng này. Thuế quan cao làm suy yếu hiệu quả kinh tế ở Mỹ và Trung Quốc, đẩy hai nước này sang trái dọc theo đường cong Kuznets, về phía giai đoạn mà lượng khí thải tăng lên thay vì giảm xuống. Đồng thời, việc chuyển hướng chuỗi cung ứng khiến nhiều nền kinh tế đang phát triển tăng sản lượng và tiến lên, như dự kiến, dọc theo đoạn tăng dần của đường cong.
Khói và hơi nước bốc lên từ một nhà máy thép ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. (Ảnh: Reuters)
Lượng phát thải carbon không chỉ gia tăng ở các nền kinh tế đang phát triển mà còn tăng lên ngay cả ở quốc gia phát triển. Tác động môi trường từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung được cho là nghiêm trọng hơn nhiều so với những tính toán ban đầu, vốn ước tính mức tăng đột biến khoảng 410 triệu tấn khí CO₂ trên phạm vi toàn cầu.
Hướng tới thương mại xanh
Quan hệ thương mại hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc được đánh giá là mang đặc trưng “phát thải cao”, khi phần lớn gánh nặng ô nhiễm bị đẩy ra bên ngoài biên giới quốc gia, qua đó làm suy giảm nỗ lực chung của thế giới trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực trạng này cho thấy thương mại , nếu thiếu định hướng phù hợp, có thể trở thành lực cản đối với mục tiêu môi trường toàn cầu.
Theo ông Xu Qiyuan, Phó Giám đốc Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc, việc xây dựng mô hình quan hệ thương mại “xanh” với chính sách thương mại và mục tiêu khí hậu liên kết rõ ràng là rất quan trọng.
Ví dụ, bằng cách giảm bớt rào cản đối với công nghệ carbon thấp và thừa nhận việc giảm thuế quan có thể là hình thức hợp tác khí hậu khi nó tạo điều kiện thuận lợi cho dòng chảy thương mại sạch hơn và hạn chế hoạt động sản xuất thâm dụng carbon.
Trước đó, Trung Quốc cũng tập trung vào tài chính khí hậu trong tương lai và phối hợp với ngân hàng trung ương cùng cơ quan hoạch định chính sách hàng đầu để xây dựng chính sách hỗ trợ dự án giảm phát thải carbon trên toàn quốc, bao gồm năng lượng tái tạo và xe điện.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn chưa thể đáp ứng một yêu cầu quan trọng của thỏa thuận khí hậu Paris là lập báo cáo kiểm kê carbon hàng năm đầy đủ để đệ trình lên Liên hợp quốc, do nước này thiếu nhân lực và nguồn lực.
Trong khi môi trường thương mại toàn cầu có nguy cơ đẩy thế giới vào vòng xoáy luẩn quẩn của việc leo thang thuế quan, suy thoái chuỗi cung ứng và gia tăng khí thải. Nếu các cường quốc tiếp tục con đường này, phớt lờ thực tế rằng cuộc chiến thương mại gây tổn hại đến hệ sinh thái hành tinh mà mọi nền kinh tế đều phụ thuộc vào, thì tất cả đều sẽ chịu thiệt.