Nói về chi phí logistics cao, một doanh nghiệp chuyên xuất khẩu tôm có thâm niên hơn 30 năm với hơn 7.000 lao động cho biết nguồn nguyên liệu của công ty đến từ Cà Mau, Hậu Giang (cũ), Bà Rịa-Vũng Tàu (cũ). Riêng nguyên liệu nhập khẩu sẽ về cảng Cát Lái, thủ tục hải quan, giao nhận tại cảng mất khoảng 5 ngày, chi phí khoảng 10 triệu đồng/container. Sau đó nguyên liệu được vận chuyển về nhà máy tại tỉnh Hậu Giang (nay là TP.Cần Thơ) để chế biến ra thành phẩm. Nếu đi đường bộ để hàng về trong ngày thì chi phí là 9 triệu đồng/container. Còn đi từ cảng Cái Mép về nhà máy ở Hậu Giang (cũ), chi phí là 23 triệu đồng/container; từ cảng Cát Lái về tỉnh Cà Mau là 18 triệu đồng/container. Hàng sản xuất xong tiếp tục vận chuyển về cảng Cát Lái để xuất khẩu, chi phí khoảng 10 triệu đồng/container. "Khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu hằng tháng lên đến hàng ngàn container nên chi phí cho khâu vận tải, thủ tục là rất lớn. Nếu chẳng may có vấn đề phát sinh, hàng phải nằm cảng thì chi phí còn đội lên cao hơn nhiều", đại diện doanh nghiệp này cho biết.
Chi phí vận tải đường bộ chiếm tỷ lệ cao trong logistics
Ảnh: Ngọc Dương
Chi phí vận chuyển chiếm tỷ lệ lớn gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng hóa và đây là vấn đề đã được phản ánh nhiều năm nay. Bà N.C, giám đốc một công ty gỗ viên nén, dẫn chứng 2 tấn gỗ tươi nén được 1 tấn khô, có giá trị khoảng 3,4 triệu đồng. Quãng đường từ nhà máy đến cảng là 80 km, chi phí tầm 8 triệu đồng/container khoảng 40 tấn, tương đương 200.000 đồng/tấn, chiếm khoảng 10% giá trị sản phẩm. "Con số này cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ sinh lời", bà N.C nói. Tương tự, ông N.B, chủ một doanh nghiệp xuất khẩu cao su, kể có một số thời điểm, container từ Việt Nam đi Thượng Hải (Trung Quốc) có phí 0 đồng do phía Trung Quốc hút container rỗng về để doanh nghiệp của họ chủ động trong việc xuất khẩu. Thế nhưng trong nước vẫn ở mức cao. Thậm chí, ngay cả khi giá cước vận tải biển thế giới giảm liên tục gần đây thì doanh nghiệp xuất khẩu hàng theo FOB (giá tại cảng xuất khẩu của người bán) cũng không được lợi gì. Bởi vận tải biển là cuộc chơi của doanh nghiệp nước ngoài, chi phí do họ quyết định.
Theo ông Lê Duy Hiệp, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Transimex, chi phí logistics trên giá thành của từng ngành, từng nhóm hàng là khác nhau. Ví dụ hiện nay chi phí cho xuất khẩu gạo đang khá cao so với giá thành do chi phí vận tải cao. Hàng điện tử, điện thoại thông minh có chi phí vận tải thấp do giá trị mặt hàng cao, khối lượng nhẹ. Thống kê cho thấy chi phí logistics trên tổng chi phí doanh nghiệp của nông sản là 10%, thủy hải sản từ 25 - 30%... "Chi phí logistics của Việt Nam hiện tại cao so với các quốc gia có trình độ phát triển cao, nhưng ngang bằng hoặc thấp hơn các nước trong khu vực (trừ Singapore). Tuy nhiên, yêu cầu của toàn xã hội là phải giảm chi phí logistics hơn nữa để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam", ông Hiệp nói.
Các đường vành đai cần được đầu tư mạnh mẽ, phục vụ lưu thông hàng hóa. Trong ảnh: Cầu Nhơn Trạch thuộc dự án Vành đai 3 TP.HCM
Ảnh: Gia Khánh
Đưa con số cụ thể cho thấy chi phí logistics của Việt Nam hiện chiếm từ 16 - 20% giá thành sản phẩm, TS Trịnh Việt Dũng, Giám đốc điều hành phân hiệu KLU châu Á, khẳng định tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với nhiều quốc gia. Tại Mỹ, chi phí logistics khoảng 7 - 9%, châu Âu trung bình 8 - 10%, Thái Lan và Malaysia khoảng 10 - 12%, còn Trung Quốc duy trì ở mức 14 - 16%. Điều này cho thấy Việt Nam đang chịu áp lực cạnh tranh rất lớn, nhất là với các ngành xuất khẩu chủ lực. Ông Trịnh Việt Dũng chỉ rõ nguyên nhân khiến chi phí logistics cao là do hạ tầng kết nối chưa đồng bộ. Hơn 80% hàng hóa vẫn vận chuyển bằng đường bộ, trong khi vận tải thủy nội địa mới đạt khoảng 15% và chưa có tuyến đường sắt kết nối trực tiếp các cảng lớn như Cái Mép-Thị Vải. Nghiên cứu quốc tế về vận tải tại ASEAN cho thấy việc tăng cường vận tải biển gần và đa phương thức có thể tiết kiệm từ 30 - 40% chi phí. Đây là giải pháp mà Việt Nam có thể nghiên cứu triển khai.
Ngược lại, khi liên kết logistics kém hiệu quả, toàn bộ chuỗi liên kết kinh tế vùng sẽ suy yếu, làm giảm sức cạnh tranh và hạn chế khả năng lan tỏa phát triển ra cả nước, tăng chi phí cho hàng hóa Việt . Báo cáo nghiên cứu "Gia tăng liên kết logistics nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam bộ" được công bố vào tháng 8 đã chỉ ra những bất cập, hạn chế khi sự đồng bộ hóa về thể chế chính sách trong vùng Đông Nam bộ chưa được tối ưu, dẫn đến doanh nghiệp phải gánh chịu những chi phí logistics không cần thiết và tốn nhiều thời gian trong quá trình giao nhận hàng hóa. Nghiên cứu do VCCI-HCM, Hội đồng Tư vấn kỹ năng nghề ngành logistics Việt Nam (LIRC) thực hiện.
Nghiên cứu chỉ ra cơ sở hạ tầng logistics vùng Đông Nam bộ (thời điểm chưa sáp nhập tỉnh, thành) gồm TP.HCM tập trung cảng biển, cảng hàng không; hệ thống kho bãi nhỏ, khu công nghiệp (KCN) gần khu dân cư, áp lực giao thông lớn, kết nối giữa KCN, kho bãi và bến cảng manh mún. Tại Bình Dương, hạ tầng tốt, đường sá rộng rãi, có khu dịch vụ riêng như hải quan, kho bãi. Tuy nhiên khả năng kết nối đến các đầu mối cảng biển phục vụ xuất nhập khẩu còn hạn chế. Tại Đồng Nai, hạ tầng tập trung tại trung tâm tỉnh và khu vực giáp ranh Bà Rịa-Vũng Tàu, vùng ven còn sơ khai. Bà Rịa-Vũng Tàu có cảng biển lớn nhưng liên kết với các tỉnh khác còn hạn chế, chỉ có QL51 kết nối chính. Tây Ninh thì phát triển công nghiệp mạnh nhưng cơ sở hạ tầng logistics gần như không có. Điều này có thể cải thiện sau khi thực hiện sáp nhập với tỉnh Long An.
Chi phí logistics của Việt Nam hiện tại cao so với các quốc gia có trình độ phát triển cao, nhưng ngang bằng hoặc thấp hơn các nước trong khu vực (trừ Singapore). Tuy nhiên, yêu cầu của toàn xã hội là phải giảm chi phí logistics hơn nữa để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Để giảm chi phí logistics , đặc biệt trong bối cảnh xu hướng logistics xanh, và tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt , TS Trịnh Việt Dũng cho rằng cần một chiến lược tổng thể, đồng thời hướng đến phát triển bền vững. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2023) nhấn mạnh hạ tầng logistics thiếu đồng bộ có thể làm tăng chi phí vận chuyển từ 20 - 25%, trong khi đầu tư đúng hướng có thể giảm chi phí xuống mức trung bình khu vực. Như vậy, Việt Nam cần hoàn thiện hạ tầng kết nối, đẩy nhanh các dự án chiến lược như Vành đai 3, Vành đai 4, cao tốc TP.HCM-Mộc Bài, Biên Hòa-Vũng Tàu để rút ngắn thời gian vận chuyển và giảm ùn tắc. Đồng thời, cần phát triển vận tải biển gần và vận tải thủy nội địa, cũng như chuẩn bị cho các dự án đường sắt kết nối cảng biển trong tương lai.
Một nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế Xã hội LHQ về châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP, 2020) cho thấy vận tải đường biển chặng ngắn (short sea shipping) tại ASEAN có thể giúp tiết kiệm từ 30 - 40% chi phí so với vận tải đường bộ, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính. Đây là xu thế mà Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt. Thêm vào đó, cần thúc đẩy số hóa trong logistics, áp dụng công nghệ quản lý vận tải, internet vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn để tối ưu hóa vận hành, tiết kiệm nhiên liệu và giảm chuyến xe trống. Cuối cùng, cần phát triển logistics xanh và nguồn nhân lực chất lượng cao. Doanh nghiệp nên đầu tư vào phương tiện sử dụng năng lượng sạch, áp dụng năng lượng tái tạo tại kho bãi và đồng thời đào tạo nhân sự có năng lực quản trị chuỗi cung ứng bền vững. "Nếu triển khai hiệu quả các giải pháp này, chi phí logistics của Việt Nam có thể giảm xuống mức trung bình khu vực từ 10 - 12%, giúp các ngành xuất khẩu chủ lực như điện tử, dệt may, da giày, nông sản và thủy sản tăng sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu", ông Trịnh Việt Dũng nhận định.
Ông Lê Duy Hiệp cũng đồng tình để giảm chi phí logistics , cần tập trung các giải pháp đồng bộ. Đó là xem lại công tác quy hoạch về phát triển logistics tại các địa phương sau sáp nhập sao cho phù hợp. Không ban hành các chính sách làm tăng chi phí logistics (trực tiếp hoặc gián tiếp), ví dụ chi phí hạ tầng cảng biển tại TP.HCM và Hải Phòng. Xây dựng đội tàu biển container của Việt Nam theo hướng dần dần đáp ứng được yêu cầu về vận chuyển quốc tế, bớt phụ thuộc vào các hãng tàu biển nước ngoài, vốn lâu nay thường thao túng về chi phí vận tải. Tương tự, đối với vận tải hàng không, các hãng hàng không trong nước nên đầu tư phát triển freighter (máy bay chuyên vận tải hàng hóa) và tăng năng lực cạnh tranh về vận tải hàng hóa bằng đường hàng không nhằm giảm bớt sự phụ thuộc quá mức vào các hãng hàng không nước ngoài. Đồng thời, cải thiện mạnh mẽ về thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến thông quan hàng hóa theo hướng giảm bớt chi phí tuân thủ hành chính cho doanh nghiệp, giảm bớt kiểm tra chuyên ngành. Cùng đó, giảm bớt các chi phí về hạ tầng đường bộ (bao gồm phí cầu đường tại các trạm thu phí do đầu tư công và tư). Ngoài ra, tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông, đặc biệt các đường vành đai có tác dụng phục vụ cho vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hóa nói chung, như các đường vành đai 3, vành đai 4.
Riêng PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam (VLI), cho rằng chi phí vận tải chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng chi phí logistics , trong đó vận tải đường bộ chiếm trên 70% trong tổng thị phần vận tải nội bộ. Cơ cấu vận tải mất cân đối, đường bộ chiếm tỷ trọng lớn, trong khi đường thủy và đường sắt chưa được khai thác hiệu quả cũng là một yếu tố tác động đến chi phí logistics . Tuy nhiên, đây cũng là dư địa cải thiện chi phí vận tải qua đó nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa Việt . PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa nhấn mạnh để giảm chi phí logistics trong bối cảnh doanh nghiệp phải chuyển dịch sang logistics xanh, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết là đầu tư hạ tầng và kết nối vận tải đa phương thức. Việc phát triển đồng bộ đường bộ, đường sắt, đường thủy, cùng với hệ thống cảng cạn và trung tâm logistics sẽ giúp giảm phụ thuộc vào đường bộ, từ đó hạ chi phí chung. Kế đến, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ 4.0 là giải pháp căn cơ. Doanh nghiệp ứng dụng IoT, Big Data, AI có thể giảm trung bình 23% chi phí logistics và rút ngắn 35% thời gian xử lý đơn hàng. Số hóa là chìa khóa để tối ưu vận tải, giảm quãng đường rỗng và tăng tính minh bạch. Thêm vào đó là phát triển logistics xanh và sử dụng năng lượng tái tạo. Cuối cùng là nguồn nhân lực. Hiện nay, chỉ khoảng 24% nhân lực logistics tại Việt Nam được đào tạo chính quy, điều này hạn chế khả năng ứng dụng công nghệ và quản lý chuỗi hiệu quả. Do đó, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải được coi là giải pháp chiến lược để triển khai logistics xanh và giảm chi phí một cách bền vững.
Nếu đồng thời cải thiện hạ tầng, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển logistics xanh và nâng cao chất lượng nhân lực, chi phí logistics của Việt Nam hoàn toàn có thể được kiểm soát và giảm dần, qua đó nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường quốc tế.
PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam
Bộ Công thương đang hoàn thiện Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu giảm chi phí logistics xuống 12 - 15% GDP, tốc độ tăng trưởng ngành đạt 15 - 20%/năm. Đồng thời, logistics sẽ được tích hợp trong Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia với 30% số phương tiện chuyển sang năng lượng sạch và 80% số doanh nghiệp áp dụng chuyển đổi số.