Trong hành trình 80 năm qua của đất nước, lúa gạo có thể coi là đại diện cho sức mạnh của nông nghiệp Việt Nam. Chúng ta từ chỗ thiếu đói đã từng bước vươn lên để tự túc rồi trở thành quốc gia xuất khẩu gạo thứ 3, thứ 2 thế giới. Thành tựu này chứng tỏ sự đúng đắn của lời khẳng định tại Nghị quyết 19 của Trung ương Đảng về nông nghiệp , nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 rằng: nông nghiệp là lợi thế quốc gia!

TS Đặng Kim Sơn
ẢNH: TÙNG ĐINH
Từ thuở dựng nước, người Việt đã xây dựng nên nền tảng vững chắc của nền văn minh lúa nước và quỹ đất lúa màu mỡ gắn liền với nguồn nước được truyền đời qua nhiều thế hệ nhờ có hệ thống thủy lợi được xây dựng thành hệ thống tưới tiêu vào loại rộng lớn và hiệu quả nhất ở Đông Nam Á. Đây là nền tảng quan trọng để tăng vụ và chủ động điều chỉnh diện tích gieo trồng, đáp ứng biến động của thị trường .
Trên nền tảng đó, người nông dân đã tổ chức sản xuất lúa khéo léo với bộ giống và kỹ thuật canh tác đa dạng, phù hợp các miền sinh thái và được hỗ trợ bằng các chính sách tập hợp nguồn gien, nghiên cứu khoa học, khuyến nông, hình thành hệ thống giống từ sản xuất nguyên chủng đến giống kỹ thuật chất lượng tốt. Nhờ đó chúng ta có nền tảng đạt năng suất cao và chất lượng lúa ngày càng tốt.
Tiếp theo là hàng loạt chính sách hậu cần cung cấp vật tư, thiết bị, năng lượng, thông tin… cho nông nghiệp . Từ chỗ nhập khẩu hoàn toàn đầu vào nông nghiệp , chúng ta đã dần xây dựng và phát triển các nhà máy phân đạm, phân bón tổng hợp. Bên cạnh đó, tự cung cấp một phần máy móc, thiết bị..., từng bước tự chủ chuỗi cung ứng sản xuất nông nghiệp . Kèm theo đó là các chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô đồng ruộng để áp dụng cơ giới hóa và gần đây đang tiến đến tự động hóa, số hóa, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp .
Các chính sách về mảng kinh doanh, công nghiệp chế biến cũng từng bước được hoàn chỉnh, huy động được năng lực của kinh tế tư nhân vào đầu tư phát triển chế biến và thương mại, logistics. Hàng loạt hiệp định thương mại đã được ký kết với các đối tác trên thế giới, trong đó lúa gạo trở thành một mặt hàng quan trọng cung cấp cho các đối tượng khách hàng đa dạng, đưa hạt gạo Việt Nam đi khắp nơi trên thế giới.
Cả nước hôm nay đang quyết tâm bước vào kỷ nguyên mới bằng những đột phá của cuộc cách mạng tổ chức. Đó là tín hiệu để ngành lúa gạo vươn mình, trước hết đổi mới tổ chức, thể chế. Nếu nhà nước giúp tháo gỡ được 4 rào cản lớn nhất thì mọi vấn đề khác chính các chủ thể trong ngành sẽ tự xử lý: một là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hai là kinh doanh kém phối hợp, ba là không gian sản xuất không đồng bộ và bốn là thị trường bất định.

Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới tổ chức sản xuất gạo phát thải thấp trên quy mô lớn với 1 triệu héc ta
ẢNH: CÔNG HÂN
Thứ nhất, phải xóa bỏ lời nguyền: nông dân là người nghèo khổ, làm lúa là khổ nhất, dù có năng suất cao đến đâu, chất lượng tốt đến mấy thì hiệu quả kinh tế cũng chẳng đáng kể vì ruộng quá nhỏ bé. Trong 10 năm qua, 1 triệu héc ta đất lúa quý báu đã bị mất đi và ruộng của người dân ngày càng bé. Nông dân nhỏ phải chung sức với nhau trong các hợp tác xã để tăng quy mô và sử dụng đất đai hiệu quả khi lao động được rút ra. Muốn khuyến khích phát triển hợp tác xã không thể ép buộc như ngày xưa, cũng không thể giúp hời hợt như hiện nay mà cần tạo ra lợi thế cho nông dân trong hợp tác xã về vốn đầu tư, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị so với những người ở ngoài. Đi kèm với đó là những chính sách ưu đãi cho nông dân giỏi chuyên trồng lúa được phép tích tụ đất đai, hình thành các trang trại lớn.
Thứ hai, phải xóa bỏ lời nguyền: giá lúa lên thì nông dân bỏ doanh nghiệp, giá xuống thì doanh nghiệp bỏ nông dân. Trong tình trạng doanh nghiệp cứ lo đi đấu thầu ký được hợp đồng rồi mới quay lại thu mua lúa của nông dân, ít doanh nghiệp có được vùng nguyên liệu; giữa sản xuất và kinh doanh là hàng loạt tầng nấc trung gian buôn bán và chế biến nhỏ và tất cả các bên đổ lỗi cho nhau. Giải pháp căn bản là tổ chức liên kết giữa các tác nhân trong toàn chuỗi giá trị. Thể chế vẫn là hàng đầu. Các hợp tác xã là cánh cổng để hộ nông dân bước vào sản xuất lớn và hộ kinh doanh đi lên kinh doanh lớn. Các hiệp hội phải trở thành cánh cổng để các doanh nghiệp bước vào làm ăn lớn và tiến ra chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay chúng ta đã có hiệp hội lúa gạo hoạt động rất hiệu quả, cần phân cấp trao quyền để tổ chức này thực sự trở thành người phối hợp, người hỗ trợ tích cực cho các đối tượng, nhất là các doanh nghiệp tiếp cận các chính sách của nhà nước và cung cấp cho họ những dịch vụ trước đây trông vào nhà nước (nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường …).
Cả nước hôm nay đang quyết tâm bước vào kỷ nguyên mới bằng những đột phá của cuộc cách mạng tổ chức. Đó là tín hiệu để ngành lúa gạo vươn mình, trước hết đổi mới tổ chức, thể chế. Nếu nhà nước giúp tháo gỡ được 4 rào cản lớn nhất thì mọi vấn đề khác chính các chủ thể trong ngành sẽ tự xử lý: một là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hai là kinh doanh kém phối hợp, ba là không gian sản xuất không đồng bộ và bốn là thị trường bất định.
Thứ ba, phải xóa bỏ lời nguyền: địa phương nào làm lúa cũng nghèo. Phải giữ đất lúa để thực hiện trách nhiệm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đã đến lúc phải làm giàu bằng lúa. Muốn thế, phải hình thành các vùng chuyên canh, các vùng nguyên liệu chế biến ổn định trên địa bàn và có quy mô sản xuất hiệu quả nhất để đủ sức cơ giới hóa, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh, áp dụng được công nghệ mới, hình thành được khối lượng hàng hóa đáng kể, thống nhất được tiêu chuẩn kỹ thuật. Cần hoàn chỉnh lại quy hoạch trong từng tỉnh và liên vùng, bắt đầu từ đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phân chia các vùng sản xuất gắn với từng thị trường (đồng bộ từ giống, kỹ thuật, tiêu chuẩn), có khu công nghiệp chế biến, hệ thống logistics hoàn chỉnh. ĐBSCL phải kết nối thuận tiện với cảng container nước sâu.
Trong bài toán liên kết vùng, liên kết ngành, lời giải cũng là tổ chức, thể chế. Nhiều nước trên thế giới, các ngành hàng nông sản chiến lược được tổ chức theo hình thức "Hội đồng ngành hàng" là cơ quan tối cao điều phối hoạt động. Thời gian qua, đề án "Hội đồng ngành hàng lúa gạo" đã đưa ra - sẽ có đại diện không chỉ của Bộ NN-MT , Bộ Công thương mà còn có các địa phương sản xuất chính, có đại diện doanh nghiệp lớn, đại diện của nông dân và hợp tác xã, đại diện thương lái, của người chế biến. Một hội đồng tập hợp đầy đủ thành phần sẽ chịu trách nhiệm quán xuyến toàn bộ công tác điều hành phát triển, vận hành ngành hàng từ quy hoạch địa bàn, xây dựng cơ sở hạ tầng chiến lược, quản lý thị trường , quyết định xuất nhập khẩu... Khi đã trả lời được những vấn đề trên dài hạn và minh bạch thì việc đầu tư vào đâu, áp dụng khoa học công nghệ gì, tổ chức sản xuất như thế nào... là các quyết định chủ động của mọi tác nhân cùng phối hợp.

Việt Nam vượt qua Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới trong năm 2025
ẢNH: CÔNG HÂN
Thứ tư, phải xóa bỏ lời nguyền: được mùa mất giá. Hằng năm các doanh nghiệp chạy vòng quanh thế giới để tìm đơn hàng và cạnh tranh lẫn nhau để ký hợp đồng với giá ngày càng thấp. Trong khi đó, hàng loạt quốc gia vẫn phải bỏ tiền để trợ cấp cho người sản xuất, người tiêu dùng. Trong bối cảnh các quốc gia tự lo thân, làm gián đoạn thương mại, chia cắt chuỗi giá trị, nguy cơ của đảm bảo an ninh lương thực riêng từng nước đang làm thị trường thêm bất định. Đã đến lúc ngành lúa gạo Việt Nam phải chuyển từ quan hệ mua bán ngắn hạn sang các liên kết đầu tư dài hạn. Trước hết, cần ký kết các hiệp định thương mại dài hạn chuyên về lúa gạo với các đối tác dễ bị tổn thương nhất về an ninh lương thực như Philippines, Indonesia, Cuba, Nhật Bản, châu Phi (qua các tổ chức viện trợ phát triển)... Trong đó, gắn kết mỗi quốc gia, mỗi thị trường với một vùng chuyên canh cụ thể ở Việt Nam phục vụ riêng theo chương trình dài hạn cho từng khách hàng riêng biệt, được giao trách nhiệm cho các doanh nghiệp và các địa phương cụ thể. Việt Nam có trách nhiệm cung cấp đúng, và bạn hàng có trách nhiệm thu mua đúng. Từ đó hình thành hệ thống kho ngoại quan, hệ thống vận tải và logistics để đảm bảo thông suốt, không để đứt gãy chuỗi cung ứng trong mọi tình huống.
Sau đó, tiến đến hình thành các vùng chuyên canh cho các đối tác đa dạng toàn cầu nhắm vào các thị trường khó tính, có giá trị gia tăng cao. Căn cứ vào yêu cầu mỗi đối tác về cơ cấu giống, tiêu chuẩn kỹ thuật, thương hiệu, truy xuất nguồn gốc, có khối lượng và thời gian cung ứng rõ rệt mà hình thành các vùng chuyên canh cụ thể. Ví dụ, theo lợi thế về điều kiện tự nhiên quy hoạch vùng sản xuất chất lượng cao, vùng sản xuất lúa nếp phục vụ thị trường Trung Quốc, lúa Japonica cho thị trường Đông Bắc Á, lúa Halal cho thị trường Hồi giáo… Mỗi vùng chuyên canh gắn với một hệ sinh thái mà thị trường đòi hỏi như hệ thống chế biến, logistics, tiêu chuẩn kỹ thuật, cảnh quan môi trường nhất định. Chúng ta sẽ mời gọi họ vào đầu tư sản xuất kinh doanh lúa gạo cùng Việt Nam. Được như thế, vốn FDI không chỉ chảy vào các khu công nghiệp mà sẽ đổ mạnh vào sản xuất nông nghiệp , biến thành hạt giống, máy móc, thiết bị, hạ tầng, chuyên gia để đưa Việt Nam lên thành cường quốc nông sản thế giới.
Trong thế giới đầy biến động về chính trị và xung đột như hiện nay, rất nhiều nước đã tận dụng lợi thế của mình để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về an ninh quốc phòng. Tuy nhiên an ninh lương thực là điều quan trọng không kém, nếu không nói là mối lo thường trực toàn cầu, thì Việt Nam đã vươn lên rất mạnh từ đói kém lên đứng thứ 2, thứ 3 trên top 5 toàn cầu. Với 7 - 8 triệu nông dân nhỏ và vài vạn người kinh doanh nhỏ lẻ, vài trăm doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngành lúa gạo Việt Nam đã đạt giá trị xuất khẩu vượt qua nhiều quốc gia xuất khẩu vũ khí nổi tiếng thế giới thường xuyên nhận được đầu tư khổng lồ của nhà nước và các công ty xuyên quốc gia. Cái ăn cho nhân loại chính là sức mạnh mềm quan trọng của đất nước ta chẳng kém gì vũ khí. Đảm bảo dạ dày cho đối tác là cách tạo niềm tin, gắn quan hệ, tạo ra sức mạnh mềm mạnh mẽ cho dân tộc. Hạt gạo Việt Nam không chỉ là hàng hóa kinh tế mà còn là niềm tin ngoại giao, là sức mạnh quốc phòng, là sự hấp dẫn của văn hóa từ nền văn minh lúa nước.
Nhờ những đột phá về thể chế 40 năm trước, Việt Nam đã đổi mới thành công. Nếu quyết làm thì hôm nay cũng sẽ thế, những ông quan tham nhũng, những cán bộ xin - cho, những người làm ăn thiếu chữ tín, tất tật sẽ thay đổi khi cơ chế mới hình thành. Lần này sẽ là liên kết mọi đối tượng sản xuất, kinh doanh lại trong các tổ chức cộng đồng, để tiếp nhận sự phân cấp, trao quyền và phối hợp với bộ máy nhà nước tinh giản để cùng tham gia quản lý, tham gia đầu tư phát triển.
Tôi mơ về sức mạnh mềm của lúa gạo Việt Nam , về lợi thế quốc gia của nông nghiệp Việt Nam có thể tiếp tục vươn xa hơn. Việt Nam không chỉ có những trung tâm tài chính quốc tế ở TP.HCM và Đà Nẵng, trung tâm đổi mới sáng tạo ở Hà Nội mà còn có trung tâm lúa gạo ở Cần Thơ, trung tâm cà phê ở Buôn Ma Thuột… Không chỉ có lúa gạo và nông sản Việt Nam được cẩu xuống tàu container đi ra khắp các tuyến đường biển quốc tế mà các cán bộ kỹ thuật, nông dân sản xuất giỏi, kỹ sư công nghệ, doanh nhân Việt Nam cũng bước lên máy bay đi ra khắp nơi trên thế giới với tư cách là những cán bộ chỉ đạo, nhà kinh doanh, nhà chế biến, nhà chính sách. Sức mạnh về trí tuệ, về lòng cần cù và sự sáng tạo của người làm lúa gạo Việt Nam nếu được phối hợp với lợi thế của các nước có đất, có nước, có thị trường , có vốn đầu tư sẽ đem lại lợi ích tổng thể cho đất nước và nhân loại. Lúa gạo phải mở đường cho các ngành hàng khác của nông nghiệp vươn ra thế giới đầu tư và buôn bán.