Ảnh minh họa
Việt Nam và Thái Lan hiện là hai trong số những quốc gia xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng nguyên liệu cho ngành sản xuất săm lốp, găng tay và các sản phẩm công nghiệp. Thái Lan nhiều năm liền giữ vị trí số một về xuất khẩu cao su tự nhiên, với sản lượng thường chiếm hơn 30% thị phần toàn cầu, tập trung vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và châu Âu.
Việt Nam đứng thứ ba thế giới, chỉ sau Thái Lan và Indonesia, với thế mạnh về mủ cao su sơ chế và cao su hỗn hợp, chủ yếu xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc. Trong khi Thái Lan duy trì lợi thế nhờ diện tích trồng lớn, sản lượng ổn định và hệ thống chế biến hiện đại, Việt Nam lại nổi bật ở khả năng đa dạng hóa sản phẩm và mở rộng thị trường thông qua các hiệp định thương mại tự do.
Bên cạnh nguồn cung nội địa, hàng năm nước ta vẫn chi số tiền lớn để nhập khẩu cao su nhằm phục vụ xuất khẩu . Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan, trong tháng 9/2025 cả nước nhập khẩu 146 nghìn tấn cao su, tương đương hơn 233 triệu USD, giảm 13,1% về lượng và giảm 8,4% về kim ngạch so với tháng 8/2025. Giá nhập khẩu tháng 9/2025 đạt trung bình 1.588,5 USD/tấn, tăng 5,4% so với tháng 8/.
Lũy kế trong 9 tháng đầu năm, nhập khẩu nhóm hàng này đạt 1,33 triệu tấn, tương đương gần 2,19 tỷ USD, tăng 2,9% về khối lượng và tăng 10,8% về kim ngạch so với 9 tháng năm 2024. Giá trung bình trong cả 9 tháng đạt 1.648,8 USD/tấn, tăng 7,7%.
Xét về thị trường, cao su nhập khẩu về Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Campuchia với hơn 511 nghìn tấn, tương đương 682 triệu USD, giảm 9,3% về lượng nhưng tăng 0,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân đạt 1.333 USD/tấn, tăng 10,6% so với 9T/2024.
Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc với hơn 203 nghìn tấn, tương đương 352 triệu USD, tăng 43,4% về lượng và tăng 26,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Giá bình quân đạt 1.732,1 USD/tấn, tương ứng giảm 12% so với cùng kỳ.
Hàn Quốc là nhà cung cấp lớn thứ 3 của Việt Nam với hơn 141 nghìn tấn, trị giá hơn 235 triệu USD, tăng 6% về lượng và tăng 3% về kim ngạch. Giá bình quân giảm 3%, tương ứng 1.666 USD/tấn.
Hiện mức thuế nhập khẩu cho cao su tự nhiên hiện dao động từ 5% đến 10%, phụ thuộc vào loại sản phẩm và xuất xứ của lô hàng. Nếu là nguồn từ các quốc gia trong khối ASEAN, các hiệp định thương mại tự do như AFTA có thể áp dụng mức ưu đãi, thậm chí 0% thuế nhập khẩu với điều kiện có C/O hợp lệ.
Đánh giá về triển vọng tiêu thụ cao su, các chuyên gia cho rằng mặt hàng này vẫn chịu sức ép do nhu cầu tiêu thụ của người dân Trung Quốc giảm và sự phục hồi kinh tế còn chậm. Ngoài ra, tại Ấn Độ, Tata Elxsi, công ty nghiên cứu và phát triển kỹ thuật trong lĩnh vực ô tô, báo cáo quý thứ tư liên tiếp sụt giảm lợi nhuận, do sự chững lại của ngành ô tô toàn cầu - lĩnh vực có liên quan mật thiết đến nhu cầu cao su cho sản xuất lốp xe.
Doanh nghiệp này cho biết thị trường ô tô vẫn bất ổn vì biến động ở Trung Quốc và ảnh hưởng từ các chính sách thuế nhập khẩu giữa các nền kinh tế lớn.
Các chuyên gia nhận định, trong ngắn hạn, thời tiết bất lợi và nguồn cung bị gián đoạn có thể tiếp tục hỗ trợ giá cao su, song triển vọng dài hạn vẫn phụ thuộc vào sức cầu của ngành ô tô và kinh tế châu Á .