Không chỉ là nơi tập trung sản xuất, khu công nghiệp (KCN) xanh sinh thái còn được kỳ vọng sẽ trở thành hạt nhân của nền kinh tế tuần hoàn, nơi doanh nghiệp chia sẻ tài nguyên, phụ phẩm và chất thải, qua đó tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tác động môi trường. Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi, khung pháp lý hiện hành đã dành cho KCN sinh thái một số ưu đãi nhất định. Tuy nhiên, khi so sánh với KCN truyền thống, nhiều chuyên gia cho rằng những ưu đãi này trên thực tế chưa tạo ra khác biệt rõ rệt, thậm chí chưa đủ hấp dẫn để bù đắp chi phí cao và rủi ro trong giai đoạn đầu tư.
Trung tâm phân phối trong khu vực (RDC) của LEGO Việt Nam, nằm trong KCN Giang Điền, Trảng Bom, Đồng Nai
ẢNH: LÊ NAM
Cụ thể, theo Nghị định 35/2022/NĐ-CP, một trong những ưu đãi quan trọng dành cho KCN sinh thái là khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Chủ đầu tư hạ tầng cũng như doanh nghiệp sinh thái được vay vốn từ Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng các quỹ, nhà tài trợ trong và ngoài nước. Đồng thời, họ có thể tiếp cận tín dụng xanh tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu xanh cũng được cho phép để huy động vốn cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN sinh thái hoặc thực hiện các biện pháp sản xuất sạch hơn và cộng sinh công nghiệp. Đây là những công cụ tài chính quan trọng giúp nhà đầu tư đa dạng hóa nguồn vốn, nhất là trong bối cảnh chi phí đầu tư ban đầu của một KCN sinh thái thường cao hơn đáng kể so với KCN truyền thống.
Bên cạnh ưu đãi tài chính, các KCN sinh thái còn được ưu tiên tham gia những chương trình hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, xúc tiến đầu tư do cơ quan nhà nước tổ chức. Doanh nghiệp trong KCN sinh thái cũng được ưu tiên tiếp cận thông tin thị trường, cơ hội hợp tác, nhằm hình thành mạng lưới cộng sinh công nghiệp, qua đó tận dụng phụ phẩm, chất thải của doanh nghiệp này làm nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp khác. Về mặt đất đai, các dự án đầu tư hạ tầng KCN sinh thái được áp dụng chính sách miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định pháp luật về đất đai. Ngoài ra, tùy theo địa bàn, KCN sinh thái cũng có thể được hưởng các ưu đãi thuế, ưu đãi xuất nhập khẩu, hoặc các chính sách hỗ trợ của địa phương tương tự như những KCN khác.
Đáng nói, các ưu đãi này thực tế không khác biệt nhiều so với KCN thông thường. Hiện nay, phần lớn các KCN truyền thống cũng đang được hưởng ưu đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, miễn giảm tiền thuê đất hoặc hỗ trợ đầu tư hạ tầng từ ngân sách địa phương nếu nằm trong vùng khuyến khích đầu tư. Trong khi chi phí thực hiện cao hơn từ 25 - 30% so với KCN thường, thì các ưu đãi với KCN xanh sinh thái càng khiêm tốn. Việc đầu tư hạ tầng xanh, công nghệ xử lý chất thải, hệ thống đo lường, hay triển khai các giải pháp cộng sinh công nghiệp đều đòi hỏi nguồn vốn lớn trong khi chính sách ưu đãi hiện tại chưa đủ để bù đắp sự chênh lệch đó.
Trung tâm phân phối trong khu vực (RDC) của LEGO Việt Nam, nằm trong KCN Giang Điền, Trảng Bom, Đồng Nai
ẢNH: LÊ NAM
Một thực tế đáng chú ý là nguồn vốn tín dụng xanh còn khá hạn chế. Tính đến cuối tháng 3.2025, dư nợ tín dụng xanh của 58 tổ chức tín dụng đạt hơn 704.244 nghìn tỉ đồng, tăng khoảng 3,57% so với cuối năm 2024, và chiếm khoảng 4,3% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Trong khi đó, vào cuối quý 3/2024, có khoảng 50 tổ chức tín dụng có dư nợ xanh vượt 665 nghìn tỉ đồng, chiếm hơn 4,5% tổng dư nợ nền kinh tế, so với cùng kỳ năm trước thì tăng 7,11%. Những con số này cho thấy dù tín dụng xanh tiếp tục tăng trưởng và thu hút thêm tổ chức tham gia, nhưng tỷ trọng trong tổng dư nợ vẫn còn khá khiêm tốn, chưa tạo nên bước đột phá để trở thành một dòng vốn chủ đạo cho chuyển đổi xanh của nền kinh tế. Những con số này cho thấy các dự án xanh vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận vốn ưu đãi.
Trao đổi với Báo Thanh Niên, ông Nguyễn Hữu Nghị, Phó tổng giám đốc Amata City Biên Hòa, cho biết đến nay Việt Nam vẫn chưa có KCN nào được cấp chứng chỉ công nhận là KCN sinh thái. Nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế trong thông tư hướng dẫn của Bộ KH-ĐT (nay đã hợp nhất với Bộ Tài chính), khiến hầu hết các KCN đều còn vướng mắc.
Theo ông Nghị, khó khăn lớn nhất nằm ở những quy định liên quan đến xây dựng, môi trường và phòng cháy chữa cháy. Ngay tại Amata, nhiều doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có thể vô tình vi phạm những quy định này. Để toàn bộ hàng trăm doanh nghiệp trong KCN không xảy ra bất kỳ vi phạm hành chính nào là điều rất khó đạt được. Ngoài ra, các tiêu chí về cộng sinh công nghiệp và sản xuất sạch hơn cũng là rào cản không nhỏ. Đối với những KCN cũ, việc bố trí 25% diện tích đất dành cho hạ tầng, dịch vụ công cộng cũng thường vướng quy hoạch, mặc dù Amata không gặp khó khăn ở điểm này.
KCN Amata ở TP.Biên Hòa, Đồng Nai
ẢNH: LÊ LÂM
Ông Nghị cũng đánh giá các ưu đãi hiện nay cho KCN sinh thái còn khá chung chung, chưa đủ cụ thể để khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn chuyển đổi. Chính sách thuế và đầu tư chưa rõ ràng, thiếu những ưu đãi cụ thể cho doanh nghiệp phải đầu tư thêm vào các hạng mục chuyển đổi. Ông đề xuất bổ sung chính sách miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi thuế đầu tư và đặc biệt là điều chỉnh thời hạn thuê đất.
Một rào cản khác là tín dụng xanh. Dù trong các hội thảo, ngân hàng và Chính phủ đều khẳng định có nhiều nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án phát triển bền vững, tái chế hay tiết kiệm năng lượng, nhưng điều kiện để tiếp cận rất khắt khe. Các tiêu chí đánh giá từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới hay Ngân hàng Phát triển châu Á khá phức tạp, khiến nhiều doanh nghiệp cân nhắc giữa việc bỏ nhiều thời gian cho quy trình phê duyệt hay chỉ đơn giản là chọn vay thương mại thông thường.
"Amata đã định hướng phát triển xanh ngay từ đầu nên về tài chính, công ty đã chủ động sắp xếp để từng bước chuyển đổi. Tuy vậy, các quy định và cơ chế đánh giá trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Amata đặt mục tiêu đến năm 2026 sẽ đạt chứng nhận KCN sinh thái theo chuẩn quốc tế. Song để đạt được, cần có sự điều chỉnh chính sách kịp thời từ phía cơ quan quản lý nhằm tháo gỡ những vướng mắc hiện tại", ông Nghị nói thêm.
Luật sư Bùi Văn Thành, Trưởng văn phòng Luật sư Mặt Trời Mới, cũng đồng quan điểm rằng chính sách hỗ trợ KCN sinh thái hiện nay mới dừng lại ở mức chủ trương, để trở thành quy định pháp luật cụ thể thì vẫn còn nhiều khó khăn. Thực tế, theo luật Đầu tư 2020, các ưu đãi hiện hành như thuế thu nhập doanh nghiệp hay miễn, giảm tiền thuê đất không có sự khác biệt giữa KCN xanh và KCN truyền thống. Doanh nghiệp khi vào KCN cũng chỉ được hưởng ưu đãi theo điều 16 của luật Đầu tư, tức miễn 2 năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo, tương tự các KCN thông thường.
Ông Thành chỉ rõ điểm quan trọng nhất của KCN sinh thái phải là sản xuất xanh, song tiêu chuẩn áp dụng hiện chưa rõ ràng. Có những nghịch lý khi quy hoạch ngành nghề của KCN xanh vẫn bao gồm cả gia công sắt thép hay chế biến hải sản, trong khi mục tiêu lại là thu hút công nghệ cao, sạch. Về thủ tục, việc thành lập KCN xanh hầu như không có gì khác biệt so với KCN thường, ngoài việc bổ sung thẩm quyền phê duyệt của UBND tỉnh. Các khâu như quy hoạch, giải phóng mặt bằng, quyền sử dụng đất vẫn tiến hành như cũ; nhà nước tiếp tục chịu trách nhiệm đền bù, giải tỏa theo quy định của luật Đất đai 2024.
Ông Thành nhấn mạnh 60% KCN ở các địa phương đang được định hướng "chuyển đổi xanh", nhưng thực tế mới dừng ở mức khẩu hiệu. Câu hỏi đặt ra là ai sẽ bỏ chi phí để nâng cấp hệ thống xử lý môi trường, doanh nghiệp hay nhà nước? Nếu tiêu chuẩn hiện tại chỉ yêu cầu đạt mức B, mà muốn lên chuẩn cao hơn thì chi phí rất lớn và doanh nghiệp khó có thể tự xoay xở. Chính vì vậy, giải pháp quan trọng nhất là chính sách phải đi đôi với hành động cụ thể.
Bài học kinh nghiệm từ các nước, vùng lãnh thổ cho thấy ưu đãi đủ sẽ khuyến khích các chủ đầu tư quyết liệt chuyển đổi xanh sinh thái.
Tại Nhật Bản, chương trình Eco-Town được triển khai từ cuối thập niên 1990 đã chứng minh cho sức mạnh của chính sách hỗ trợ. Chính phủ nước này dành trung bình 36% vốn trợ cấp cho các dự án tái chế và cộng sinh công nghiệp, có nơi mức hỗ trợ lên tới gần 50%. Nhờ đó, hàng chục KCN đã nhanh chóng hình thành mô hình tuần hoàn, biến chất thải thành nguyên liệu đầu vào và tạo ra giá trị kinh tế mới. Ở Singapore, Cơ quan Phát triển hạ tầng JTC áp dụng mô hình "không vốn đầu tư" cho doanh nghiệp khi lắp đặt điện mặt trời. Thay vì phải bỏ vốn ban đầu, doanh nghiệp được mua điện với giá chiết khấu hoặc nhận tiền thuê mái, qua đó giảm đáng kể rủi ro tài chính và khuyến khích áp dụng năng lượng tái tạo.
Các doanh nghiệp tư tìm hiểu cơ hội đầu tư, hợp tác tại KCN Hàm Kiệm II
ẢNH: ĐÌNH SƠN
Tại Trung Quốc, từ năm 2025, chính phủ đã triển khai mô hình KCN zero-carbon quốc gia với cơ chế tiếp cận vốn ưu đãi từ ngân hàng chính sách, phát hành trái phiếu xanh và đơn giản hóa thủ tục cho các dự án năng lượng tái tạo. Những chính sách này không chỉ mang tính khẩu hiệu mà trực tiếp giảm chi phí, tăng lợi ích cho doanh nghiệp, tạo động lực thực chất để họ chuyển đổi.
Luật sư Bùi Văn Thành dẫn chứng Đài Loan đã áp dụng chính sách rõ ràng hơn khi chỉ cho phép doanh nghiệp xanh vào hoạt động trong các khu chuyên biệt, đồng thời chính quyền trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ xử lý môi trường. Trong khi đó, tại Việt Nam, trách nhiệm vẫn chủ yếu đặt lên vai các công ty phát triển hạ tầng KCN, với tiêu chuẩn xả thải áp dụng theo quy chuẩn cũ. Việc chuyển đổi từ KCN truyền thống sang KCN sinh thái lại càng khó hơn khi doanh nghiệp phải tự gánh chi phí để đáp ứng các tiêu chí xanh trong khi chính sách hỗ trợ cụ thể chưa có.
Để đạt được mục tiêu Net Zero, các chuyên gia nhấn mạnh Việt Nam cần mạnh dạn áp dụng những ưu đãi "cứng" mà các nước, vùng lãnh thổ đã thực hiện thành công như: hỗ trợ trực tiếp theo tỷ lệ vốn đầu tư xanh, gói vay dài hạn từ ngân hàng chính sách, miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho dự án đạt tiêu chí sinh thái, đồng thời ưu tiên về thời hạn thuê đất và thủ tục hành chính. Chỉ khi chính sách được lượng hóa cụ thể, doanh nghiệp mới thấy rõ lợi ích kinh tế để đầu tư vào mô hình KCN sinh thái, biến cam kết Net Zero thành hành động thực chất.
Hiện KCN thông thường có thời hạn thuê đất khoảng 50 năm, trong khi KCN công nghệ cao là 70 năm. Nếu KCN sinh thái được kéo dài thời hạn hoạt động thì sẽ tạo thêm động lực cho doanh nghiệp đầu tư và chuyển đổi.
Ông Nguyễn Hữu Nghị , Phó tổng giám đốc Amata City Biên Hòa
Doanh nghiệp sẵn sàng hưởng ứng nếu thấy được lợi ích rõ ràng về giá thành và lợi nhuận. Nếu yêu cầu chuyển đổi nhưng không đi kèm ưu đãi, hỗ trợ trực tiếp và thiết thực thì khó có thể tạo động lực để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào mô hình KCN sinh thái.
Luật sư Bùi Văn Thành, Trưởng văn phòng Luật sư Mặt Trời Mới