Theo đó, khoản tiền sử dụng đất bổ sung phải nộp đã giảm từ 5,4%/năm tại Nghị định 103/2024 xuống còn 3,6%/năm.
Cụ thể, đối với trường hợp đã có quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất , điều chỉnh quy hoạch chi tiết trước ngày 1.8.2024 nhưng chưa quyết định giá đất để tính tiền sử dụng đất thì thực hiện tính và thu tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 điều 257 luật Đất đai năm 2024.
Khoản tiền người sử dụng đất phải nộp bổ sung đối với thời gian chưa tính tiền sử dụng đất theo quy định tại điểm d khoản 2 điều 257 luật Đất đai năm 2024 được tính bằng mức thu 3,6%/năm tính trên số tiền sử dụng đất phải nộp.

Tiền sử dụng đất bổ sung giảm từ 5,4% xuống còn 3,6% năm
ẢNH: ĐÌNH SƠN
Với trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (sổ hồng) mà không có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất thì tiền sử dụng đất bằng diện tích đất được cấp sổ hồng là đất ở nhân giá đất ở quy định tại bảng giá đất nhân 70%.
Trường hợp mức thu đã nộp để được sử dụng đất thấp hơn mức thu theo quy định của pháp luật tại thời điểm nộp tiền thì số tiền đã nộp được quy đổi ra tỷ lệ % diện tích đất đã hoàn thành việc nộp tiền sử dụng đất theo chính sách và giá đất tại thời điểm nộp tiền. Tiền sử dụng đất của phần diện tích đất còn lại được tính theo quy định của Nghị định này và tại thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ đề nghị cấp sổ hồng.
Đối với phần diện tích còn lại, trường hợp được công nhận vào mục đích đất ở (nếu có) và được cấp sổ hồng thì thu tiền sử dụng đất bằng 100% tiền sử dụng đất tính theo chính sách và giá đất ở quy định tại bảng giá đất tại thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ đề nghị cấp sổ hồng.
Nghị định số 291/2025 bổ sung một số khoản của điều 17 Nghị định số 103/2024 quy định về nguyên tắc thực hiện miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với các đối tượng được miễn, giảm tiền sử dụng đất .

Cách tính tiền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân cũng có sự thay đổi
ẢNH: ĐÌNH SƠN
Theo đó, Nghị định số 291/2025 quy định: Hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại điều 18, điều 19 Nghị định số 103/2024 chỉ được miễn hoặc giảm một lần đối với diện tích đất trong hạn mức khi được nhà nước giao đất để làm nhà ở hoặc được phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất khác sang đất ở hoặc được công nhận vào mục đích đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai.
Việc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân là người nghèo, người dân tộc thiểu số chỉ áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân sinh sống (thường trú) tại nơi có đất; hồ sơ miễn, giảm tiền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Không áp dụng miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất ; đất xây dựng nhà ở thương mại theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 157 luật Đất đai năm 2024.
Việc miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp giao đất tái định cư thực hiện theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Riêng trường hợp miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với người phải di dời khi nhà nước thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người và trường hợp nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở và không có chỗ ở nào khác trong địa bàn đơn vị hành chính cấp xã nơi có đất bị thu hồi thì thực hiện theo quy định tại Nghị định số 103/2024.