Số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho thấy tính đến ngày 31.8, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) đăng ký vào VN ước đạt 26,14 tỉ USD, tăng hơn 27% so với cùng kỳ. Đáng lưu ý, cả 3 dòng vốn FDI là đăng ký cấp mới, điều chỉnh mở rộng đầu tư và góp vốn, mua cổ phần đều ghi nhận tăng mạnh. Trong đó, số dự án cấp phép mới tăng hơn 12% nhưng vốn đầu tư mới giảm hơn 8%. Đáng lưu ý, vốn FDI điều chỉnh ghi nhận sự bứt phá mạnh mẽ, tăng gần 86% so với cùng kỳ năm trước, phần vốn tăng gần bằng vốn đăng ký mới. Tương tự, vốn đăng ký góp, mua cổ phần trong khu vực FDI tăng gần 59% với 4,46 tỉ USD, tập trung vào các lĩnh vực chế biến, chế tạo; khoa học công nghệ... Đầu tư mở rộng tăng cũng góp phần quan trọng vào vốn FDI thực hiện tăng. Trong 8 tháng, vốn FDI thực hiện tại VN ước đạt 15,4 tỉ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước - cao nhất của 8 tháng trong 5 năm qua.
Với kết quả trên, Cục Đầu tư nước ngoài nhận định: Nhà đầu tư mới thận trọng hơn khi khởi động dự án tại VN, do những biến động trên thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, các dự án hiện hữu lại mở rộng quy mô đáng kể. Điều này phản ánh sự tin tưởng dài hạn của nhà đầu tư đang hoạt động, đồng thời cho thấy việc thu hút dự án mới chưa thật sự bứt phá. Bên cạnh đó, dữ liệu cho thấy khả năng hấp thụ vốn và tiến độ giải ngân được cải thiện, đặc biệt trong bối cảnh dòng đầu tư toàn cầu đang suy giảm.
Giải ngân vốn FDI đạt mức cao nhất trong 5 năm qua so cùng kỳ
Ảnh: Phạm Hùng
Bên cạnh đó, số liệu của Cục Thống kê cho thấy vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước trong tháng 8 cũng tăng hơn 32%, lũy kế 8 tháng tăng gần 27% so cùng kỳ. Đặc biệt, khu vực tư nhân ghi nhận nhiều tín hiệu khởi sắc. Trong 8 tháng, cả nước có gần 210.000 doanh nghiệp (DN) đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính bình quân vốn đăng ký của một DN thành lập mới trong 8 tháng đạt 9,8 tỉ đồng - tăng 9% so với cùng kỳ năm trước. PGS-TS Nguyễn Đức Độ, Phó viện trưởng Viện Kinh tế tài chính (Học viện Tài chính), nhận xét: "Trong bối cảnh kinh tế quốc tế kém thuận lợi, những con số trên khá ấn tượng. Điều đáng chú ý là số lượng DN đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 8 tháng tăng rất mạnh; vốn FDI và giải ngân FDI đều tăng cho thấy mặc dù bối cảnh quốc tế kém thuận lợi, nhưng niềm tin vào môi trường kinh doanh trong nước, vào triển vọng kinh tế đã có sự cải thiện, thay đổi đáng kể".
Chuyên gia kinh tế, PGS-TS Nguyễn Thường Lạng cũng đồng tình không phải tự nhiên mà vốn FDI tăng 2 con số, giải ngân FDI cũng tăng mạnh, đạt kỷ lục trong 5 năm qua. Đó là kết quả bước đầu của loạt quyết sách đúng đắn, kịp thời và quyết liệt từ T.Ư, tạo động lực chuyển mình cho nền kinh tế. "Những năm gần đây, VN đã rất tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Dù so với các quốc gia trong khu vực thì vẫn còn hạn chế nhưng những cải cách mạnh mẽ trong thời gian qua, như sáp nhập địa phương, tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính, thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng công nghệ cao, coi trọng các mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao... đã tăng độ hấp dẫn của VN đối với khu vực FDI . Bên cạnh đó, Nghị quyết 68 tháo bung cho kinh tế tư nhân hoạt động là chất xúc tác quan trọng, giúp vốn đầu tư trong và ngoài nước được tháo gỡ mạnh mẽ hơn. Thế nên, kết quả trên là những con số biết nói, minh chứng cho chiến lược phát triển đúng đắn, cần được đẩy mạnh, tăng tốc và tập trung hơn để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra", ông Lạng nói.
Mặt khác, PGS-TS Nguyễn Đức Độ lưu ý trong bối cảnh thị trường toàn cầu vẫn còn nhiều bất ổn, xuất khẩu có thể gặp nhiều thách thức..., kích thích tiêu dùng nội địa là hết sức cần thiết. Thống kê cho thấy hiện nay, tỷ lệ tiết kiệm của VN đạt mức khá cao, cao hơn mức đầu tư tính trên GDP. Nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư chưa được sử dụng triệt để. Do vậy, VN còn dư địa để kích thích cả đầu tư và tiêu dùng nhằm đạt mức tăng trưởng cao hơn. Việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất cũng là một trong những giải pháp góp phần quan trọng kích thích tiêu dùng và đầu tư.
PGS-TS Phạm Thế Anh - Trưởng khoa Kinh tế học, ĐH Kinh tế Quốc dân - nhận xét: Dòng tiền đổ vào nền kinh tế tăng là có thật, hoạt động ở các khu vực đều có sự sôi động khá tích cực. Song để giữ được phong độ thu hút FDI cũng như phát triển lực lượng DN trong nước, không thể dựa mãi vào chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng mà cần có hệ thống thuế công bằng, hiệu quả thì tăng trưởng mới bền vững.
Bởi việc nới lỏng tín dụng, hạ lãi suất để thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư chỉ nên là giải pháp ngắn hạn, được sử dụng khi nền kinh tế gặp khó khăn. Dùng công cụ này liên tục sẽ làm phát sinh nhiều rủi ro, từ lạm phát, bong bóng tài sản đến mất ổn định tỷ giá. PGS-TS Trần Đình Thiên lưu ý: VN đang có xu hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ xuất khẩu dẫn dắt sang lấy đầu tư công làm động lực chính. Tuy nhiên, để đầu tư công phát huy hiệu quả, nguồn lực tài khóa phải đủ mạnh và được sử dụng hiệu quả. "Ngân sách hiện nay lại đang gặp một số vấn đề, đó là thu từ thuế và phí - nguồn thu ổn định lâu dài - đang có chiều hướng giảm. Vì thế, để tạo hiệu quả tốt nhất cho dòng vốn FDI và vốn tư nhân trong nước, trước mắt, cần chú ý đến việc kết nối đầu tư công với khu vực DN trong nước. Nếu các dự án đầu tư công chỉ dừng ở việc thuê nhà thầu nước ngoài, mua nguyên vật liệu từ bên ngoài, thì hiệu ứng lan tỏa sẽ rất thấp", chuyên gia đề xuất.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nội địa hóa - vốn là điểm yếu lâu năm của DN VN, đang trở thành yếu tố quyết định trong bối cảnh các thị trường lớn, đặc biệt là thị trường Mỹ và EU siết chặt yêu cầu về xuất xứ hàng hóa. Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa rõ ràng hơn. Ví dụ, sản phẩm có 70% linh kiện nội địa hóa có thể được áp dụng mức thuế thấp hơn sản phẩm chỉ có 30% nội địa hóa. Điều này sẽ thúc đẩy DN đầu tư nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước. Thứ 2 là tái cấu trúc chi tiêu ngân sách, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, tăng đầu tư hạ tầng, đổi mới sáng tạo để hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Các DN VN không nên dừng lại ở khâu làm thuê, gia công trong chuỗi giá trị toàn cầu, mà phải chuyển sang làm chủ công nghệ, nguyên vật liệu và thị trường đầu ra. Điều này đòi hỏi chính sách vĩ mô phải đi trước một bước, không chỉ hỗ trợ về vốn, mà cả về đào tạo nhân lực, hỗ trợ nghiên cứu phát triển và bảo hộ hợp lý với ngành công nghiệp non trẻ.
PGS-TS Phạm Thế Anh